Tại thành phố Hồ Chí Minh, giám đốc của một công ty tư nhân đã mua 530 tờ hoá đơn GTGT của 5 đơn vị khác để hợp thức hoá số hàng hải sản trị giá hơn 310,5 tỷ đồng, chiếm đoạt hơn 6,85 tỷ đồng tiền thuế được hoàn. Vị giám đốc đó là Hồ Thanh Hải, giám đốc công ty tư nhân Chế biến thuỷ sản Bình Hưng, kế toán trưởng của công ty này là Lê Huy Chỉnh. Từ tháng 12-1999 đến tháng 8-2001, doanh nghiệp tư nhân Bình Hưng đã kê khai báo cáo thuế và xác lập hồ sơ xin hoàn thuế tại Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh và đã được hoàn số tiền thuế hơn 6,8 tỷ đồng, số thuế được khấu trừ là 16,6 tỷ đồng. Trong hành vi gian lận của Hồ Thanh Hải, số hàng hoá được kê khai trên hoá đơn là có thật nhưng là hàng hải sản nguyên liệu thu mua trôi nổi của các thương lái mua gom từ ngư dân đánh ngoài biển. Các thương lái này có hàng hoá nhưng lại không có tư cách pháp nhân nên không xuất hoá đơn GTGT và không lập bảng kê. Hồ Thanh Hải phối hợp với Lê Huy Chỉnh mua 530 tờ hoá đơn thuế GTGT của các công ty khác bằng hình thức ký hợp đồng mua bán giao hàng hải sản tay ba. Số hoá đơn GTGT đã được hợp thức hoá được mua theo những tỷ lệ khác nhau, cụ thể: 2,5% đối với hoá đơn thuế suất 5%, 7,5% đối với hoá đơn thuế suất 10%. Số lượng hàng hoá đã được hợp thức hoá trên 530 tờ hoá đơn là 14.270.782 kg hải sản các loại, trị giá 310.571.344.825 đồng và tương đương với số thuế GTGT là 21.798.659.726 đồng, tổng trị giá thanh toán là 332.370.004.551 đồng. Từ tháng 12-1999 đến tháng 8-2001, Lê Huy Chỉnh đã lập 5 bộ hồ sơ xin hoàn thuế GTGT và đã được cục thuế thành phố Hồ Chí Minh hoàn 6.858.359.374 đồng tiền thuế, ngoài ra còn được khấu trừ 16.596.609.223 đồng. (8)
Một vụ việc khác cũng được phát hiện ra ở Thành phố Hồ Chí Minh là vào tháng 8 năm 2002, công an thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Võ Thành Đức đã sử dụng giấy tờ giả để đăng ký thành lập 12 công ty TNHH, mua lại 3 hồ sơ pháp nhân cùng con dấu của doanh nghiệp đã bị giải thể. Với các doanh nghiệp “ma” này, Đức đã tổ chức bán trái phép 2000 hoá đơn, thu lợi bất chính hơn 1 tỷ đồng. (9)
Năm 2005, tại Hà Nội công an cũng đã phát hiện một buôn bán hoá đơn GTGT, bắt 2 đối tượng là Nguyễn Thị Minh, sinh năm 1957, là giám đốc công ty TNHH Xuất nhập khẩu thương mại tổng hợp BMC và Phạm Thị Mai, sinh năm 1983 là
giám đốc công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Ngọc Minh. Tang vật thu được là 25 quyển hóa đơn GTGT của 2 công ty TNHH trên và 46 quyển hóa đơn của một số hộ kinh doanh tại 61 Phó Đức Chính. (10)
Cũng trong năm 2005, tại An Giang, TAND tỉnh phát hiện giám đốc Công ty TNHH Tấn Hùng có hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Công ty này đã lập các hợp đồng kinh doanh mua bán khống 73.300 tấn gạo có doanh số gần 143,4 tỷ đồng, giúp 76 cơ sở xay xát khấu trừ 5,7 tỷ đồng thuế GTGT trái phép. Để có tư cách pháp nhân để mua hoá đơn GTGT của cơ quan thuế, Võ Hùng Anh, giám đốc Công ty TNHH Tấn Hùng, đã ký khống hợp đồng thuê 6 nhà máy xay xát, mở chi nhánh ở Tiền Giang, lập hồ sơ vay vốn khống…mua của nhà nước 1200 tờ hoá đơn thuế GTGT và bán lại cho 76 nhà máy xay xát có thực nói trên. Hội đồng xét xử đã kết án 14 năm tù cho Võ Hùng Anh về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước. (11)
Tại Đà Nẵng, trong năm 2005 cũng phát hiện nhiều vụ án trốn thuế, gian lận thuế GTGT nghiêm trọng. Trong đó có vụ án của Nguyễn Trọng Hậu (25 tuổi) và Đào Thiên Khánh (24 tuổi) có hành vi sử dụng giấy tờ giả. Công an Đà Nẵng đã phát hiện Hậu làm giả chứng minh thư để xin giấy phép thành lập Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Đà Sơn. Công ty này không có bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà chỉ thực hiện mua bán hoá đơn thuế GTGT. Ngoài công ty Đà Sơn, Hậu và Khánh còn làm giả chứng minh thư nhân dân lấy tên là Nguyễn Công Tây thành lập Công ty TNHH Tín Hữu cũng để mua bán hoá đơn GTGT. Công an đã thu giữ phần lưu của 10 tập hoá đơn thuế GTGT ở 2 công ty này với số tiền ghi trên hóa đơn hơn 16 tỷ đồng. Nhờ hành vi gian lận, Hậu và Khánh đã thu lợi bất chính hơn 1 tỷ đồng. Trong số 108 doanh nghiệp mua hoá đơn của 2 “doanh nghiệp ma” này có 30 doanh nghiệp nhà nước và 78 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. (12)
Tháng 7-2005, tại Cần Thơ phát hiện vụ mua bán hoá đơn GTGT lớn nhất. Huỳnh Quốc Ngọc cầm đầu đường dây mua bán hoá đơn GTGT đã thành lập tới 42 doanh nghiệp ma, bán trái phép 8000 tờ hoá đơn GTGT, giúp 450 doanh nghiệp được hoàn 2300 tỷ đồng, gây thiệt hại cho nhà nước hơn 100 tỷ đồng. Chỉ riêng
Có thể bạn quan tâm!
-
Hoá Đơn, Chứng Từ Sử Dụng Trong Thuế Kê Khai Và Nộp Thuế Gtgt
-
Thực trạng kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp - 4
-
Những Hành Vi Gian Lận Thuế Giá Trị Gia Tăng Ở Việt Nam Hiện Nay
-
Bán Hàng Không Lập Hóa Đơn, Không Kê Khai Doanh Thu
-
Tổ Chức Quản Lý Việc Thực Thi Luật Thuế Giá Trị Gia Tăng Thiếu Hợp Lý
-
Ý Thức Chấp Hành Pháp Luật Của Các Doanh Nghiệp Còn Kém
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
doanh nghiệp Minh Tài (một trong số những doanh nghiệp ma do Ngọc thành lập ) đã xuất khống số hàng hóa trị giá 124 tỷ đồng chiếm đoạt của nhà nước 6,21 tỷ đồng của nhà nước. Hai doanh nghiệp ma khác do Ngọc thành lập cũng lập hồ sơ xuất khống số hàng hoá trị giá 160 tỷ đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước hơn 10 tỷ đồng. (13)
Xem xét các vụ gian lận nêu trên, có thể nhận thấy rằng các vụ án về thuế GTGT đã diễn ra từ rất lâu, ngay từ khi Luật thuế GTGT mới ra đời. Luật thuế GTGT mới có hiệu lực từ 1-1-1999 nhưng ngay sau đó đã xuất hiện những hành vi gian lận thuế GTGT và các vụ gian lận này có quy mô ngày càng lớn, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Các đối tượng thực hiện hành vi gian lận cũng rất đa dạng, từ những người cán bộ trẻ tuổi đến những doanh nhân có kinh nghiệm lâu năm. Các doanh nghiệp vi phạm thuộc đủ mọi loại thành phần kinh tế thuộc khối quốc doanh và ngoài quốc doanh. Nhưng tựu chung lại, trong các vụ án này các đối tượng đều lợi dụng những sơ hở của luật pháp để lập hoá đơn khống nhằm trục lợi bất chính từ tiền khấu trừ và hoàn thuế của nhà nước. Theo thống kê, chỉ tính đến năm 2002, tức là 3 năm sau khi áp dụng luật thuế GTGT đã có hơn 16000 đơn vị đề nghị hoàn thuế GTGT so với 1 triệu đối tượng nộp thuế. Tính đến tháng 6-2002, số thuế thực hoàn là 13.000 tỷ đồng. Tiến hành kiểm tra sau khi hoàn thuế với 3.311 doanh nghiệp thì có tới 1.215 trường hợp vi phạm với số tiền 140 tỷ đồng, trong đó có 325 doanh nghiệp có hành vi vi phạm nghiêm trọng. Như vậy, trong số các doanh nghiệp được điều tra thì có tới 36,7% doanh nghiệp vi phạm pháp luật, những con số này rung lên một hồi chuông báo động cho các nhà hoạch định chính sách cần phải sửa chữa những sai sót nghiêm trọng đang tồn tại trong hệ thống pháp luật hiện nay. (14)
Qua các vụ án dẫn chứng ở trên chúng ta cũng nhận thấy rằng quy mô các vụ gian lận ngày càng lớn, và các đối tượng có hành vi vi phạm bằng hình thức thành lập doanh nghiệp ma thường thành lập nhiều doanh nghiệp ma cùng lúc, điển hình là vụ án của Huỳnh Quốc Ngọc, trong vụ án này đối tượng đã thành lập tới 42 doanh nghiệp ma, bán 8000 tờ hoá đơn, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước hơn
100 tỷ đồng. Điều này đặt ra câu hỏi lớn cho những nhà làm luật về cách quy định việc thành lập doanh nghiệp hiện nay.
Những doanh nghiệp ma được thành lập ra chỉ để kinh doanh hoá đơn thuế GTGT
và sau một thời gian nó sẽ biến mất, thay thế vào đó lại là các doanh nghiệp ma khác. Để thành lập được các doanh nghiệp này, các đối tượng thường không dùng danh nghĩa của chính họ để tránh liên luỵ khi bị phát hiện mà họ thường dùng danh nghĩa của những người khác để đứng tên thành lập công ty hoặc mua lại bộ chứng nhận pháp nhân của các công ty đã giải thể. Các đối tượng thường được các đối tượng thuê để đứng tên thành lập doanh nghiệp thường là những người nghiện ma tuý, những kẻ phạm tội, những người thần kinh và có cả những người đã chết. Dù cho hành vi gian lận có bị phát giác thì cơ quan điều tra cũng không thể kết tội những người đã mất năng lực hành vi hay những người đã chết. Một thủ đoạn khác mà bọn tội phạm sử dụng là sử dụng chứng minh thư nhân dân giả để đứng tên thành lập doanh nghiệp. Đây là những thủ đoạn tinh vi của bọn tội phạm mà pháp luật đã để cho chúng một kẽ hở quá lớn.
Các doanh nghiệp ma ra đời với “chức năng” cung cấp hoá đơn GTGT đã tiếp tay cho rất nhiều doanh nghiệp thực hiện hành vi gian lận. Số hoá đơn mà các doanh nghiệp ma này cung cấp được các doanh nghiệp khác sử dụng để hợp thức hoá số hàng hoá, nguyên liệu đầu vào nhằm chiếm đoạt tiền thuế được hoàn của Ngân sách nhà nước. Trong số hàng hóa được kê khai trong những hoá đơn khống này, có những hàng hoá là có thật như hàng nông sản, thuỷ sản thu mua của nông dân, ngư dân, thương lái; cũng có những hoá đơn kê khai hàng hoá, dịch vụ khống nghĩa là trên thực tế không có hành vi mua bán nào cả mà chỉ có trên hoá đơn. Nhờ những hoá đơn khống này mà các doanh nghiệp gian lận của nhà nước hàng trăm nghìn tỷ đồng. Thực chất không có doanh nghiệp bán ra, tức là nhà nước không thu được số thuế đầu ra của doanh nghiệp bán mà chỉ có doanh nghiệp mua vào và nhà nước phải chi tiền để hoàn lại thuế đầu vào cho những doanh nghiệp này. Đó là còn chưa kể đến số thuế mà các doanh nghiệp này đã được khấu trừ.
Mặt hàng bị sử dụng hoá đơn khống nhiều nhất có lẽ là mặt hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản chưa qua chế biến, thu mua trực tiếp từ người nông dân. Do đặc điểm sản xuất nông nghiệp của nước ta, các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng này đi thu mua nông sản trực tiếp từ người nông dân nhỏ lẻ, không theo một đơn vị kinh doanh nào nên không có hoá đơn GTGT, mà chỉ có bảng kê chi tiết hàng hoá, có xác nhận cuả chính quyền địa phương. Điều này tạo một kẽ hở lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản. Họ đi mua những hoá đơn GTGT của những công ty khác để hợp thức hoá những sản phẩm thu mua được và nhận tiền hoàn thuế khi xuất khẩu.
Đáng nói hơn là các hành vi gian lận này được thực hiện rất tinh vi. Các đối tượng thường sử dụng hình thức hợp lý hoá các hoá đơn theo một chuỗi các khâu trung gian.
Ví dụ: doanh nghiệp 1 (DN1) bán hoá đơn khống cho DN2, sau đó chuyển qua khâu trung gian là DN3 … DNn, mỗi DN này lại ở các nơi khác nhau (Hà Nội, Lạng Sơn, Cần Thơ, Thành phố HCM) .
Do đó mà cơ quan thuế khi muốn kiểm tra lại các hoá đơn cũng rất khó khăn.
Số hoá đơn được mua bán bất hợp pháp cũng có thể là của những doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế nhưng“rút lõi” tập hoá đơn để bán. Tuy nhiên trường hợp này dễ bị phát hiện hơn do các hoá đơn xuất ra đều phải có số thứ tự nên các doanh nghiệp ít sử dụng hơn. Ngoài ra các đối tượng còn thực hiện hành vi in ấn hoá đơn giả để bán cho các doanh nghiệp có nhu cầu, nhưng phổ biến nhất vẫn là việc thành lập doanh nghiệp ma để mua hoá đơn của nhà nước.
Tóm lại, bằng cách sử dụng các hoá đơn khống để hợp thức hoá các hàng hoá nguyên liệu đầu vào, các doanh nghiệp đã gian lận của Ngân sách nhà nước một số tiền thuế GTGT khổng lồ.
2. Lập hồ sơ xuất khống
Lập hồ sơ xuất khống cung gần giống với sử dụng hoá đơn khống nhưng nó còn nghiêm trọng hơn việc sử dụng hóa đơn khống. Tương tự như hoá đơn khống thì
xuất khống là việc doanh nghiệp lập nên bộ hồ sơ xuất khẩu nhưng trên thực tế không diễn ra các hành vi xuất khẩu thực.
Phần lớn các hàng hoá xuất khẩu cuả Việt Nam đều không phải chịu thuế suất xuất khẩu. Hơn nữa, các hàng hoá xuất khẩu còn được hoàn thuế GTGT đầu vào. Đó là chưa kể đến các hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB). Nếu lập được một bộ hồ sơ xuất khống mặt hàng này thì Ngân sách còn bị thất thu khoản thuế TTĐB lẽ ra doanh nghiệp phải nộp khi bán những hàng hoá đó trong nước. Vì vậy, nếu doanh nghiệp lập được một bộ hồ sơ xuất khống thì không những doanh nghiệp không phải nộp thuế GTGT bán ra mà còn được hoàn thuế GTGT đầu vào, và nếu là hàng hoá chịu thuế TTĐB thì còn trốn được khoản thuế TTĐB phải nộp. Nhưng để lập được một bộ hồ sơ xuất khống không phải là đơn giản, mà phải liên quan đến rất nhiều bên ( công ty nhập khẩu ở nước ngoài, đơn vị vận tải, hải quan…). Như vậy nếu lập được một hợp đồng xuất khống thì ít nhất doanh nghiệp trong nước phải cấu kết được với một công ty nhập khẩu ở nước ngoài, và phải có sự “giúp sức” của cán bộ hải quan. Điều này chứng tỏ sự thoái hoá nhân cách của một số cán bộ chức năng trong bộ máy nhà nước.
Xem xét cụ thể các trường hợp xuất khống hàng hoá như sau:
Xuất khống hàng nông sản: doanh nghiệp lập được một bộ hồ sơ xuất khống hàng nông sản với bảng kê hàng nông sản đầu vào sẽ được khấu trừ 2% tiền thuế. Đối với hàng nông sản xuất khẩu, không phải chịu thuế xuất khẩu thì doanh nghiệp thu lợi toàn bộ số thuế được khấu trừ và hoàn lại này.
Xuất khống các hàng hóa khác: doanh nghiệp có thể lập hóa đơn GTGT khống đầu vào và được khấu trừ hoặc hoàn thuế tới 10%. Ngoài ra, doanh nghiệp còn được lợi thêm từ thuế thu nhập doanh nghiệp, 32% thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp ma và 25% thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung của các doanh nghiệp trong khâu sau mua hàng của doanh nghiệp ma.
Xuất khống hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, nhưng thực tế lại bán trong nước. Xét ví dụ cụ thể: xuất khống thuốc lá điếu có đầu lọc với nguyên liệu chủ yếu ngoại nhập. Giả sử doanh nghiệp thực hiện trót lọt vụ gian lận thì nhà
nước sẽ bị thiệt hại khoản thuế GTGT 10% trên giá trị hoá đơn đầu vào dùng để sản xuất số thuốc lá được kê khai là xuất khẩu. Ngoài ra, đáng lẽ doanh nghiệp đó còn phải nộp 60% thuế tiêu thụ đặc biệt đối với số thuốc lá điếu nếu bán trong nước. Như vậy, với mỗi phi vụ như thế này mà các doanh nghiệp thực hiện thành công sẽ làm thất thoát cho ngân sách nhà nước một khoản tiền rất lớn.
Như vậy, với bất cứ trường hợp xuất khống nào cũng gây ra những thiệt hại nặng nề cho ngân sách nhà nước. Nghiêm trọng hơn những thiệt hại về kinh tế chính là những nguy cơ về tham nhũng, suy đồi nhân cách đạo đức của các cán bộ nhà nước. Theo quá trình thông thường, một doanh nghiệp muốn xuất khẩu hàng hoá phải qua rất nhiều khâu, liên quan đến nhiều đối tượng. Trước hết doanh nghiệp phải ký hợp đồng xuất khẩu với đối tác nước ngoài, sau đó sản xuất hoặc thu mua hàng hoá trong nước để chuẩn bị cho việc xuất khẩu, ký hợp đồng vận tải, làm thủ tục lấy giấy chứng nhận xuất xứ, thủ tục hải quan nhưng xuất khống theo bất cứ cách nào thì doanh nghiệp cũng phải “nhờ cậy” đến rất nhiều bên để có được một bộ hồ sơ xuất khẩu hợp lý và hợp pháp. Điều đó nghĩa là cùng với hành vi gian lận từ phía doanh nghiệp thì có rất nhiều người đồng phạm, không ai khác chính là những người đang làm việc trong bộ máy chính quyền. Chính vấn đề này đang là một vấn nạn mà nhà nước ta cần giải quyết trước muốn thực hiện bất cứ đường lối đổi mới nào.
Sau đây là một số vụ việc cụ thể mà người viết thu thập được.
Cuối tháng 12/2004, cơ quan chức năng đã truy tố doanh nghiệp tư nhân Kiều Phương vì lợi dụng chính sách hoàn thuế GTGT. Với tư cách là phó Giám đốc của Kiều Phương, Dương Quang Trí đã móc nối với Phạm Minh Nhật (cán bộ phòng Xuất nhập khẩu Sài Gòn Coop) và Hoàng Văn Vinh (Trưởng phòng kế hoạch kinh doanh công ty Bách hóa điện máy) để làm ăn. Hai bên thỏa thuận, Trí và Nhật gom hàng quý hiếm như cá ngựa, nấm linh chi, bạch tuộc khô, phía công ty Bách hóa điện máy lo thủ tục xuất khẩu. Nhóm tội phạm này thiết lập quan hệ tại cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn) để làm thủ tục xuất hàng. Trên giấy tờ, với 10 hợp đồng kèm 71 tờ khai hải quan ở các cửa khẩu phía Bắc, cùng với 81 hóa đơn
GTGT, Công ty bách hóa điện máy đã xuất bán cho 3 doanh nghiệp Trung Quốc 1022 tấn hàng quý hiếm. Về hồ sơ đầu vào, nhóm này móc nối với 19 doanh nghiệp trong nước cấp hợp đồng, hóa đơn giá trị gia tăng để cân bằng lượng hàng thu mua và lượng xuất khẩu. Từ đó, chúng lập hồ sơ đề nghị và đã được Cục thuế TP HCM hoàn 8,05 tỷ đồng. Tương tự như vậy, chủ sơ sở kinh doanh nông hải sản Việt Hưng và Nam Hưng, Đặng VănTỷ Em đã cấu kết với một số giám đốc, phó giám đốc các đơn vị như: Công ty TNHH Đông Huy, chi nhánh công ty Thiết bị vật tư du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh, công ty TNHH thương mại Dịch vụ thiết kế tạo mẫu S
.T.A để hợp thức hóa các chứng từ khống trong việc mua bán hàng hải sản chiếm đoạt của nhà nước gần 3 tỷ đồng tiền hoàn thuế GTGT. (15)
Đầu năm 2005, tại Thành phố Hồ Chính Minh phát hiện Công ty Hsian và Công ty Gia Tuấn xuất khống hàng quạt máy và quần áo lên tới gần 150.000 USD nhằm chiếm đoạt tiền thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Hay ngày 21/3/2005, công ty TNHH Tuấn Ngân trụ sở đóng tại đường Lê Đại Hành, quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh, làm thủ tục xuất khẩu 9 container vải. Doanh nghiệp này đã khai báo tổng số là 873.697 mét. Nhưng khi lực lượng chống buôn lậu Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, phối hợp công an thì chỉ có 118.000 mét vải, còn lại 755.690 mét vải là khai khống. Sở dĩ doanh nghiệp cố tình khai khống như vậy là do chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, sản xuất gia công xuất khẩu, doanh nghiệp nhập nguyên phụ liệu để sản xuất xuất khẩu thì không phải chịu thuế GTGT, còn nếu nhập khẩu để tiêu thụ nội địa thì phải đóng thuế. Chính vì vậy mà doanh nghiệp đã khai tăng mức hàng xuất khẩu để trốn thuế GTGT. Thực chất công ty Tuấn Ngân xuất khống số hàng là 755.690 mét vải mà thực tế là doanh nghiệp này để lại tiêu thụ trong nước. (16)
Ngày 25/07/2006, tại cảng Cát Lái, tổ kiểm soát thấy tờ khai xuất khẩu của xí nghiệp Thanh Long có dấu hiệu sai phạm nên để ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm, Tổ kiểm soát đã tiến hành báo cáo lãnh đạo Chi cục Hải quan Quản lý hàng đầu tư thay đổi hình thức kiểm tra đối với lô hàng từ miễn kiểm tra sang kiểm tra toàn bộ và giao Tổ kiểm soát thực hiện việc kiểm tra hàng hóa. Kết quả kiểm tra,