Thực trạng kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp - 2


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG‌

Trong chương 1 này, người viết xin được giới thiệu những nét khái quát nhất về thuế giá trị gia tăng, luật thuế giá trị gia tăng và các khái niệm liên quan để người đọc có những hình dung tổng quát nhất về thuế giá trị gia tăng trước khi đi vào xem xét thực trạng thực thi Luật thuế GTGT áp dụng ở Việt Nam hiện nay được giới thiệu ở các chương sau.

I. Một số khái niệm và vai trò của thuế giá trị gia tăng

Phần này sẽ giới thiệu với bạn đọc những khái niệm liên quan đến thuế giá trị gia tăng và những vai trò của thuế giá trị gia tăng trong lưu thông hàng hóa và trong việc quản lý nhà nước về kinh tế.

1. Một số khái niệm liên quan đến thuế GTGT

Để tìm hiểu về thuế giá trị gia tăng, trước hết phải xem xét đến các khái niệm cơ bản liên quan đến thuế GTGT để từ đó có những hình dung cơ bản về thuế giá trị gia tăng.

Trước hết là khái niệm về “Giá trị gia tăng”: GTGT là giá trị tăng thêm với một sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ do cơ sở sản xuất, chế biến, bán buôn, bán lẻ hay dịch vụ tác động vào nguyên vật liệu đầu vào hay hàng hoá mua vào làm cho giá trị của chúng tăng thêm.

Từ khái niệm về giá trị gia tăng, ta có khái niệm về “thuế GTGT”:Thuế giá trị gia tăng là khoản thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.

2. Vai trò của thuế GTGT

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Vai trò của thuế GTGT trong lưu thông hàng hoá

Thuế GTGT ra đời đã giải quyết được những vấn đề mà các sắc thuế trước đó không giải quyết được, trong đó có vấn đề thuế đánh chồng lên thuế. Trước khi thuế GTGT ra đời, ở Việt Nam áp dụng luật thuế doanh thu. Luật thuế doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp thuế. Vì vậy nhà nước

Thực trạng kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp - 2


đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của sản phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Qua mỗi khâu giá của hàng hoá, dịch vụ bán ra lại phải cộng thêm phần thuế phải nộp. Như vậy, thuế đánh ở khâu sau là đánh cả vào phần thuế đã đánh vào khâu trước. Kết quả là các hàng hoá, dịch vụ luân chuyển qua càng nhiều khâu thì càng chịu nhiều thuế và tăng thu thuế cho ngân sách nhà nước. Việc đánh thuế như vậy là bất hợp lý, tác động tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thuế GTGT ra đời đã giải quyết được vấn đề này vì nhà nước chỉ đánh thuế đối với phần giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông mà không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát sinh như quy định đối với thuế doanh thu. Với cách thu thuế như vậy, nếu không có những biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm sút, yếu kém, kinh tế suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu sẽ không ảnh hưởng đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng mà còn làm cho giá cả hàng hoá, dịch vụ hợp lý hơn, chính xác hơn.

Theo nghiên cứu và thống kê của ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ thế giới (IMF) thì phần lớn các nước trong đó có cả Việt Nam sau khi áp dụng thuế GTGT, giá cả hàng hoá, dịch vụ đều không thay đổi hay chỉ thay đổi một tỉ lệ không đáng kể và mức sản xuất của các doanh nghiệp, mức tiêu dùng của dân chúng không giảm sút hoặc có giảm sút thì cũng giảm sút với một tỉ lệ không đáng kể trong thời gian đầu, ngay cả khi tăng thuế suất thuế GTGT đối với một số mặt hàng trong định kỳ điều chỉnh.

Như vậy, thuế GTGT không phải là nhân tố gây ra lạm phát, gây khó khăn, trở ngại cho việc phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá mà trái lại, việc áp dụng thuế GTGT đã góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu thông hàng hoá, từ đó góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu. Sở dĩ, thuế GTGT mang lại hiệu quả như vậy là do thuế GTGT đã giải quyết được tình trạng thuế đánh chồng lên thuế, đảm bảo được công bằng cho những nhà sản xuất, giới kinh doanh và người tiêu dùng.

Vai trò của thuế GTGT trong quản lý nhà nước về kinh tế


Một trong những đặc trưng của thuế là tính chất giai cấp. Thuế mang bản chất giai cấp. Bản chất giai cấp của nhà nước quyết định bản chất của thuế vì thuế là một công cụ quản lý của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị sẽ đặt ra những quy định về thuế như thế nào để phục vụ cho lợi ích của giai cấp họ một cách triệt để nhất. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Do đó thuế GTGT có vai trò rất quan trọng và được thể hiện thông qua các quy định của Luật pháp.

Trước hết, thuế GTGT thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, nên tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước.

Thứ hai, thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc dịch vụ nên không phải đi sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. Cũng như các loại thuế gián thu khác, người nộp thuế và người chịu thuế khác nhau nên việc nộp thuế chủ động hơn, tự giác hơn vì họ chỉ là người nộp thuế hộ cho người tiêu dùng ở khâu sau. Chỉ có người tiêu dùng cuối cùng là người chịu thuế nhưng thuế GTGT thể hiện dưới dạng một chi phí ẩn trong giá của hàng hoá, dịch vụ. Do vậy, chính người tiêu dùng cuối cùng cũng chấp nhận nó một cách dễ dàng hơn, thuế GTGT như một yếu tố cấu thành giá cuả sản phẩm.

Thứ ba, đối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế GTGT mà còn được khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế GTGT đầu vào nên có tác dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu. Từ đó, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới. Chính sách về thuế GTGT như vậy đã khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu.

Ngoài ra, thuế GTGT cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa. Bằng công cụ thuế GTGT, nhà nước có thể điều tiết nền kinh tế phát triển theo định hướng mong muốn. Cụ thể, mặt hàng nào trong nước chưa sản xuất, không có khả năng sản xuất hoặc sản


xuất không đủ thì sẽ được áp mức thuế suất thuế nhập khẩu và thuế GTGT thấp. Ngược lại, mặt hàng nào nhà nước cần hạn chế nhập khẩu thì sẽ áp mức thuế suất cao.

Tiếp theo, vai trò thứ năm của thuế GTGT là tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. Tuy nhiên, ở khâu bán lẻ thường xảy ra tình trạng trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hỏi hoá đơn, vì đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế. Tuy vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị tăng thêm thường không lớn, vì thế mà nếu có thất thoát ở khâu này thì số thuế cũng không nhiều. Thứ sáu, thuế GTGT có ít mức thuế suất (ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng 3 mức thuế suất ) nên bảo đảm sự đơn giản, rõ ràng. Với ít mức thuế suất, loại thuế này mang tính trung lập, vì về cơ bản sắc thuế này không can thiệp vào mục tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tiêu dùng, theo ngành nghề cụ thể không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng,ngành nghề có thuế suất chênh lệch nhau

nhiều.

Hơn nữa, thuế GTGT nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp thuế. Từ đó, tạo tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương, thoả thuận về mức doanh thu, mưc thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc mọi người mua, người bán phải nộp và lưu trừ chứng từ, hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế tương đối sát với hoạt động kinh doanh nên tập trung được nguồn thu thuế GTGT vào ngân sách nhà nước ngày từ khâu sản xuất. Hơn nữa, thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu về thuế.

Thuế GTGT còn có vai trò tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có hoá đơn chứng từ; việc tính thuế đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán cùng


thực hiện tốt hơn chế độ hoá đơn, chứng từ vì việc mua hàng lấy hóa đơn và kê khai hoá đơn đúng đắn vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ của họ.

Thứ chín, việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá, chuyên môn hoá sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm. Khi mua trang thiết bị máy móc sản xuất và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thuế GTGT, doanh nghiệp sẽ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào này khi quyết toán thuế với cơ quan nhà nước. Từ đó, doanh nghiệp nâng cao được nâng suất lao động, hạ được giá thành sản phẩm để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường.

Cuối cùng, thuế GTGT được ban hành gắn liền với việc sửa đổi, bổ sung một số loại thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩugóp phần làm cho hệ thống chính sách thuế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tương đồng với hệ thống thuế trong khu vực và trên thế giới, góp phần đẩy mạnh việc mở rộng hợp tác kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Nhìn chung, trong các loại thuế gián thu, thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn của chính sách thuế, như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đơn giản, trung lậpTuy nhiên, trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc và nhà nước ta đã từng bước tháo gỡ những khó khăn đó trong quá trình thực hiện Luật thuế GTGT. (1)

II. Ni dung cơ bn ca thuế GTGT

Thuế GTGT cũng như tất cả các sắc thuế khác cũng đều có những nội dung cơ bản bao gồm: đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, đối tượng không thuộc diện chịu thuế, nguyên tắc tính thuế,Mỗi sắc thuế khác nhau với những mục đích khác nhau sẽ quy định những nội dung này khác nhau nhằm đạt được mục đích cuối cùng là quản lý nền kinh tế vĩ mô theo một quy định chung. Luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay quy định những nội dung này cụ thể như sau:

Trước hết là quy định về đối tượng nộp thuế: Đối tượng nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở


kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) thuộc mọi thành phần kinh tế.

Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam .

Luật thuế GTGT còn quy định về đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT: là những đối tượng được nhà nước quy định cụ thể là không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng. Những đối tượng này không phải kê khai, nộp thuế GTGT và không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào.

Các nguyên tắc tính thuế cũng nằm trong nội dung của Luật thuế GTGT. Các nguyên tắc tính thuế GTGT được quy định cụ thể:

Thuế suất được áp dụng thống nhất cho từng mặt hàng sản xuất trong nước, nhập khẩu hay bán lẻ, bán buôn.

Thuế được tính trên giá bán (hoặc giá dịch vụ) không có thuế GTGT.

Thuế tính ở khâu sau được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước, nhưng phải căn cứ vào hoá đơn, chứng từ hợp pháp, hợp lý.

Giá tính thuế GTGT là một nội dung quan trọng của Luật thuế GTGT. Giá tính thuế được quy định cụ thể cho từng trường hợp:

Đối với hàng hoá, dịch vụ thông thường, giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT.

Đối với hàng hoá, dịch vụ mà giá bán đã có thuế GTGT (là những hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù được dùng loại chứng từ thanh toán ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT). Giá tính thuế GTGT được tính theo công thức sau:

Giá tính =Giá bán thuế GTGT 1 + t(%)

Đối với hàng hoá nhập khẩu, giá tính thuế GTGT là giá NK (CIF) + thuế NK. Trường hợp hàng bán theo phương thức trả góp hoặc trả chậm, giá tính thuế GTGT được tính như trong trường hợp hàng bán trả tiền một lần không bao gồm tiền lãi trả góp.


Đối với trường hợp hàng gia công, giá tính thuế là giá gia công chưa có thuế GTGT bao gồm: tiền công, nhiên liệu, nhân lực, vật liệu phụ và chi phí khác để gia công. Giá tính thuế đối với đại lý hưởng hoa hồng được trên hoa hồng được hưởng. Trong hoạt động cho thuê tài sản (không phân biệt tài sản và hình thức cho thuê), giá tính thuế là tiền thuê từng kì. Nếu cho thuê trong nhiều kì mà tiền thuê trả từng kì hoặc trả trước cho nhiều kỳ thì giá tính thuế GTGT là số tiền thuê đã trả. Giá tính thuế còn bao gồm các khoản phụ thu và phí thu thêm mà đơn vị cho thuê được hưởng. Nếu cho thuê trong nhiều kỳ mà tiền thuê trả từng kỳ hoặc trả trước.

Đối với hàng NK chịu thuế TTĐB:


Giá tính thuế GTGT = Giá NK + thuế NK + thuế TTĐB


Giá tính thuế GTGT cho hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước chịu thuế TTĐB là giá bán đã có thuế TTĐB nhưng chưa có thuế GTGT. Trường hợp hàng hoá, dịch vụ là quà tặng, biếu, trao đổi nội bộ, không có hoá đơn, giá tính thuế GTGT là giá xuất bán thông thường tại thời điểm làm quà tặng, quà biếu. Đối với hoạt động xây dựng và lắp đặt, giá tính thuế GTGT là giá xây dựng lắp đặt chưa có thuế GTGT. Trường hợp xây dựng, lắp đặt thực hiện thanh toán theo tiến độ thì giá tính thuế là giá thanh toán từng hạng mục công trình hoặc phần việc hoàn thành, bàn giao.

Nếu dịch vụ do phía nước ngoài cung cấp cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam: thì giá chưa có thuế GTGT được xác định theo hợp đồng, trường hợp hợp đồng lại không xác định cụ thể số thuế GTGT phải nộp thì giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ mà phía Việt Nam phải trả cho phía nước ngoài.

Thuế suất thuế GTGT: giống như tất cả các sắc thuế khác, một nội dung rất quan trọng của thuế GTGT là thuế suất thuế GTGT. Trước đây luật thuế GTGT quy định 4 mức thuế suất là 0%, 5%, 10% và 20%, nhưng hiện nay nhà nước quy định chỉ còn 3 mức thuế suất thuế GTGT là 0%, 5% và 10% nhằm đơn giản hóa công tác thu thuế. (2)


Đến năm 2008 sẽ hoàn thiện hệ thống quản lý thuế GTGT theo hướng giảm bớt số lượng nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh; áp dụng một mức thuế suất để đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản trong việc tính thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ; hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới xác định ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng để thực hiện một phương pháp tính thuế khấu trừ, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Phương pháp tính thuế: Để xác định được thuế GTGT phải nộp thì cần phải biết phương pháp tính thuế. Thuế GTGT mà các đơn vị kinh doanh phải nộp được tính dựa trên một trong hai phương pháp sau:

Giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra

Thuế GTGT đầu ra

Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó

Phương pháp khấu trừ: được sử dụng phổ biến hiện nay. Theo phương pháp này:


Thuế GTGT đầu vào

Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hóa dịch vụ và chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá NK

= x


=

Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo quy định cụ thể:


Thứ nhất, chỉ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chưa thuế GTGT.

Thứ hai, thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phát sinh mua vào trong tháng nào thì được khấu trừ toàn bộ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó không phân biệt đã xuất dùng hay chưa.

Trong quá trình thực thi Luật thuế GTGT, đặc biệt là bộ phận kế toán của các doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý đến những điểm quan trọng sau:

Ngày đăng: 20/02/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*