Như vậy, để đạt được mục tiêu trên, chúng ta phải phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp với nhiều quy mô khác nhau, tăng về số lượng, mới về phương thức hoạt động theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp, phù hợp với quy luật của lưu thông hàng hóa. Cụ thể, Việt Nam cần đổi mới mô hình tổ chức, công nghệ quản lý và phương thức kinh doanh theo hướng chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước xây dựng các loại hình doanh nghiệp thương mại. Đối với các ngành hàng kinh tế, chúng ta cần phát triển các mô hình tổ chức lưu thông theo từng thị trường ngành hàng, phù hợp với tính chất và trình độ của sản xuất, xu hướng và phương thức thỏa mãn của người tiêu dùng.
Bên cạnh việc tăng cường khuyến khích các doanh nghiệp thành lập các hiệp hội bán buôn, bán lẻ, chợ, siêu thị; Nhà nước cần kiểm tra, điều hành thị trường, tiến hành quy hoạch phát triển thương mại, hoàn thành khung pháp lý, tạo môi trường kinh doanh ổn định lành mạnh cho các doanh nghiệp nội địa.
1.2. Một số định hướng nhằm thực thi tốt hơn các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có những biến động khó lường, tiếp tục tác động không thuận lợi đến kinh tế trong nước, để tăng cường hiệu quả việc thực thi các cam kết với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung vào một số định hướng sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện đầy đủ các cam kết gia nhập WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa. Trong năm 2009 và những năm tiếp theo cắt giảm thuế theo đúng lộ trình cam kết. Hàng năm Nhà nước cần có văn bản hướng dẫn việc nhập khẩu hàng hóa được phép theo hạn ngạch thuế quan. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tập trung triển khai, hoàn thiện các cam kết về Hiệp định vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS), Hiệp định về các hàng
rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) và Hiệp định về trị giá hải quan (CVA).
Thứ hai, sớm xây dựng và hoàn thiện chiến lược hội nhập kinh tế tổng thể trong giai đoạn tới với những trọng tâm, ưu tiên rõ ràng và phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, trong đó thống nhất định hướng tham gia chủ động, tích cực và cân bằng vào hội nhập đa phương và liên kết khu vực, song phương. Chiến lược này cần bảo đảm các điều kiện thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở trong nước, điều hòa được mối quan hệ phức tạp, đan xen giữa các cam kết quốc tế của Việt Nam nhằm tăng cường tác động bổ trợ lẫn nhau giữa các cam kết này, đồng thời nâng vai trò của Việt Nam trong quá trình hoạch định chính sách thương mại toàn cầu.
Thứ ba, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục tận dụng mọi điều khoản ngoại lệ của WTO dành cho các nước đang phát triển như:
Vận dụng điều khoản ngoại lệ về bảo hộ đối với các ngành công nghiệp non trẻ để vừa duy trì mức thuế cao hợp lý, vừa áp dụng các biện pháp như giấy phép, hạn ngạch theo thời hạn cho phép một cách thích hợp.
Vận dụng điều khoản WTO cho phép các nền kinh tế đang phát triển kéo dài thời hạn cắt giảm thuế quan để áp dụng chế độ thuế linh hoạt đối với các ngành công nghiệp trong nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Hiệp Định Vệ Sinh Kiểm Dịch Động Thực Vật (Sps)
- Tác Động Chung Đối Với Nền Kinh Tế
- Đề Án Phát Triển Thương Mại Trong Nước Đến Năm 2010 Và Định Hướng Đến Năm 2020.
- Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Trong Ngành Nông Nghiệp
- Thực thi cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hoá: thực trạng tác động và định hướng - 12
- Thực thi cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hoá: thực trạng tác động và định hướng - 13
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
Vận dụng điều khoản về đảm bảo và cân bằng thu nhập ngoại hối để thực hiện các biện pháp bảo hộ khẩn cấp đối với nền kinh tế quốc dân khi rơi vào tình trạng mất cân bằng thương mại và mất cân bằng thu – chi bằng biện pháp hạn chế nhập khẩu.
Trong khuôn khổ WTO, một số biện pháp hạn chế thương mại phi thuế quan được coi là hợp lý vẫn tồn tại khá phổ biến, mà thường ở trình độ và mức độ tinh vi rất cao. Do đó, Việt Nam cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm áp dụng các biện pháp phi thuế quan của các thành viên khác để nhanh chóng áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan (được phép), chẳng hạn các biện
pháp sử dụng tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết lập hệ thống kiểm nghiệm tiêu chuẩn và chế độ thẩm tra kỹ thuật tương ứng.
Thứ tư, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tham gia tích cực vào hệ thống phân công và thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích qua thuế, tín dụng đối với những ngành công nghiệp hướng tới xuất khẩu. Tăng cường đào tạo nguồn lao động có kỹ năng trình độ cao cho các ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Từ đó, hình thành và phát triển cơ cấu thương mại của nền kinh tế phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm khai thác lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam và nâng cao tính hiệu quả của cả nền kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh việc vận động chính trị và đàm phán kỹ thuật với các đối tác về quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, góp phần giảm thiểu sự phân biệt đối xử và tác động tiêu cực của các tranh chấp thương mại do các đối tác nước ngoài khởi kiện nhằm vào các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ sáu, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của giai đoạn hội nhập sâu rộng; đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến thông tin để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và của toàn xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ khi Việt Nam là thành viên WTO.
Thứ bảy, đối với các nước có nền kinh tế chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường như nước ta thì chúng ta còn bị phân biệt đối xử ngay trong khuôn khổ của WTO. Vì vậy, một mặt chúng ta cần phải tăng cường cải cách thể chế kinh tế phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, mặt khác, cần phải đưa ra những lý do để bảo vệ và thuyết phục các nước khác về những đặc trưng riêng có của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Việc gia nhập WTO đã đánh dấu quá trình tham gia sâu rộng của nền kinh tế nước ta vào hệ thống kinh tế quốc tế, với những cơ hội và thách thức, những tác động cả thuận lợi và không thuận lợi đối với công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, quá trình này lại diễn ra trong bối cảnh kinh tế khu vực và kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường và tác động sâu rộng đến các nền kinh tế trên thế giới. Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước trong hơn hai thập kỷ qua, cùng với cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như sự chủ động và quyết tâm của Chính phủ và của toàn xã hội trong việc tận dụng tối đa các cơ hội và vượt qua các thách thức, là cơ sở vững chắc để chúng ta tin tưởng vào những bước phát triển mới của đất nước trong thời gian tới.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI TỐT HƠN CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế. Đối với nước ta, sau hai năm hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế đã được nâng lên một bước mới gắn với thực hiện các cam kết với WTO. Vì thế, để thực hiện tốt hơn các cam kết với WTO đặc biệt trong lĩnh vực thương mại hàng hóa đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Sau đây là một số giải pháp đối với nhà nước và doanh nghiệp để góp phần thực thi tốt hơn các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.
2.1. Nhóm giải pháp đối với nhà nước
2.1.1. Thúc đẩy tiến trình hoàn thiện hệ thống, cơ chế pháp luật
Để thực hiện tốt hơn các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý.
Áp dụng các chính sách để hạn chế nhập siêu và thâm hụt thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích việc sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước ;
Cần tiếp tục thay đổi một cách sâu sắc nhận thức và tư duy trong xây dựng chính sách và điều hành quản lý nhà nước theo hướng từ trực tiếp, hành chính, mệnh lệnh sang gián tiếp thông qua việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chí và các đòn bẩy kinh tế ;
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế hiện hành; nghiên cứu xây dựng một môi trường pháp lý chung chặt chẽ như chế độ quản lý kế toán, chế độ quản lý thanh toán... để ngăn chặn gian lận thương mại ;
Nâng cao khả năng quản lý đối tượng nộp thuế, tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại vào quản lý thuế, thực hiện chuyên môn hoá cao trong các khâu công việc ;
Củng cố và phát triển hệ thống hải quan Việt Nam về cơ cấu và năng lực tổ chức thực hiện, về mức độ tự động hoá và trang bị các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ theo tinh thần của Luật Hải quan và các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực hải quan. Điều này vừa tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế, vừa giúp triển khai có hiệu quả công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại ;
Chính sách và thực tế chi tiêu của Chính phủ cần phải công khai, minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế. Tăng cường kiểm soát chi, đảm bảo chi ngân sách nhà nước tiết kiệm, hiệu quả. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, thanh tra tài chính, chế độ báo cáo thông tin, bảo đảm hoạt động kinh doanh phải công khai, minh bạch. Nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính, đảm bảo lành mạnh hoá tài chính và an ninh tài chính quốc gia trong tiến trình hội nhập ;
Xây dựng thể chế và cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá và điều chỉnh việc triển khai Chương trình hành động của Chính phủ và các
chương trình hành động của bộ, ngành và địa phương sao cho thiết thực, hiệu quả và phù hợp với thực tế của bộ, ngành và địa phương.
2.1.2. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính
Thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không thật sự cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp, nhanh chóng đưa hàng hóa vào kinh doanh. Việc quản lý xuất nhập khẩu các mặt hàng quản lý chuyên ngành nên căn cứ vào tiêu chuẩn kĩ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, các điều kiện hành nghề hơn là dùng giấy phép để hạn chế thương mại. Nhà nước cần công bố công khai mọi quy trình, thời gian giải quyết công việc, người đảm nhiệm chức vụ ở các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước để mọi công dân, mọi doanh nghiệp biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện. Bên cạnh đó, để thực hiện được mục tiêu xây dựng một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”, Nhà nước cần công khai, minh bạch mọi cơ chế quản lý, chính sách. Điều này không những là tiền đề của chống tham nhũng mà còn là điều kiện để tạo ra một thị trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tự do cạnh tranh, giảm được chi phí giao dịch và cung cấp được nhiều sản phẩm với giá cả phải chăng đến tay người tiêu dùng.
Tiếp tục rà soát các giấy phép kinh doanh hiện hành và điều kiện kinh doanh đối với những ngành có điều kiện. Đơn giản hóa các thủ tục về hoàn thuế, hải quan, xây dựng, hộ khẩu phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng quy chế công bố thông tin của các cơ quan nhà nước về các cơ chế, chính sách để giải đáp các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại giữa doanh nghiệp và các cơ quan chức năng có thẩm quyền để quy định trách nhiệm và thời gian thực thi cam kết. Sắp xếp lại các cơ quan nhà nước để đảm bảo sự đồng bộ, tạo hiệu quả trong việc xây dựng và thực thi các cam kết.
2.1.3. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước
Nhà nước cần tiếp tục cần đẩy nhanh việc thực hiện chương trình đổi mới và cải cách doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Việc sắp xếp lại, đổi mới và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua đã đem lại những kết quả tích cực. Các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa đều thu được lợi nhuận cao và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
Phải khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành các loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần, kể cả các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào một số lĩnh vực quan trọng như kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ.
Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư…trong đó nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc chuyển hướng kinh doanh đảm bảo tính hiệu quả, miễn giảm thuế trong thời gian đầu lập nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực.
2.1.4. Tiếp tục bảo hộ một số ngành hàng cần hỗ trợ
Trong điều kiện cho phép và phù hợp với các quy định của WTO và cam kết của Việt Nam về lộ trình giảm thuế suất nhập khẩu, tiếp tục bảo hộ bằng thuế đối với một số loại ngành hàng cần được hỗ trợ. Áp dụng linh hoạt các phương pháp tính thuế; tiếp tục nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước tránh khỏi những cạnh tranh không bình đẳng của hàng nhập khẩu. Về các giải pháp phi thuế, chúng ta cần duy trì các chính sách đầu tư, ưu đãi đầu tư đang thực hiện không trái với quy định của WTO; bên cạnh đó, nghiên cứu, đề xuất
các chính sách đầu tư, ưu đãi đầu tư dưới các hình thức khác như hỗ trợ nghiên cứu phát triển, giáo dục đào tạo, đầu tư cải tiến trang thiết bị.
Về đầu tư, tập trung phát triển các sản phẩm trong nước có lợi thế cạnh tranh cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Khắc phục cơ bản tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu chiến lược dài hạn và đẩy mạnh xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực cần nhiều vốn, có công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tiêu hao ít tài nguyên.
Phân loại các mặt hàng thành các nhóm hàng theo những tiêu chí nhất định, như: hàng hóa thông thường, hàng hóa có tác động quan trọng đến kinh tế - xã hội, hàng hóa của các ngành truyền thống, hàng hóa của các ngành công nghiệp, hàng hóa của các ngành nông nghiệp để có những biện pháp và mức độ bảo hộ phù hợp với cam kết WTO.
2.1.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động
Việt Nam có một nguồn nhân lực dồi dào, lao động trẻ chiếm 70% lực lượng lao động lại cần cù, chăm chỉ và nhận thức nhanh. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta chưa hoàn toàn phát triển vì thế lao động chủ yếu vẫn làm việc ở những ngành có năng suất lao động thấp, chưa đòi hỏi nhiều tri thức. Còn những ngành có lĩnh vực gia tăng lớn, đòi hỏi trình độ cao, Việt Nam vẫn còn rất thiếu. Gia nhập vào WTO, tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế đòi hỏi người lao động phải có trình độ và tay nghề cao hơn để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Vì thế, đào tạo đội ngũ lao động được coi là một trong những vấn đề trọng tâm trong bối cảnh hiện nay. Một số định hướng để phát triển đội ngũ lao động cho phù hợp với tình hình và nhu cầu của WTO là:
Chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ thuật - công nghệ và dạy nghề để huy động các nguồn lực nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo gắn liền với thực hiện đầy đủ cơ chế thị trường trong việc trả lương cho người lao động. Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao