động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là các chuyên gia đầu ngành. Xây dựng một số trường đại học đạt trình độ khu vực và quốc tế.
Nhanh chóng xây dựng chiến lược cải cách giáo dục từ nội dung, phương pháp giảng dạy đến chế độ thi cử ở tất cả các cấp. Khuyến khích các chương trình hợp tác, trao đổi với nước ngoài, mời các chuyên gia nước ngoài về giảng dạy trong nước. Đồng thời chúng ta cần tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, tiếp cận các phương pháp giảng dạy tiên tiến trên thế giới.
2.1.6. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngành nông nghiệp
Khi thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, nông nghiệp là ngành dễ bị ảnh hưởng và tổn thương nhất. Việc cắt giảm thuế và xóa bỏ các hình thức trợ cấp bị cấm đã gây sức ép cạnh tranh lớn đối với hàng nông sản trong nước. Trong WTO, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện vẫn là sản xuất nhỏ, năng suất, chất lượng thấp; trong khi đó, nhiều thành viên của WTO có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao. Nông nghiệp Mỹ, nông nghiệp Tây và Bắc Âu, nông nghiệp một số nước Châu Á đều đã phát triển. Vì thế để hạn chế các tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi tốt hơn các cam kết với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, Nhà nước và ngành nông nghiệp cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước cần tiến tới một phương án mang tính cơ bản, lâu dài với tính cách là một “chiến lược” hoàn chỉnh đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chính sách đó cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhưng được đặt trong điều kiện thực tiễn mới - các nội dung đã cam kết của nước ta khi gia nhập WTO và đã đến thời điểm thực hiện, đồng thời tính đến những vấn đề thực tế của nông nghiệp nước ta hiện nay. Nội dung cốt lõi của “chiến lược” này phải bao hàm các vấn đề: khắc phục nếp nghĩ, cách làm của người nông dân sản xuất nhỏ; xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích phát triển nông
nghiệp, chính sách phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; chính sách về tích tụ ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, phát triển nông nghiệp sinh thái, phát triển làng nghề; những chủ trương lớn về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng môi trường văn hoá mới với một hệ thống những điều kiện đảm bảo tính khả thi tương ứng.
Thứ hai, Nhà nước cần có biện pháp tích cực và quyết liệt nhằm khắc phục cách nghĩ, cách làm, cách sống “tiểu nông” của người nông dân trong quá trình hội nhập. Tuy hơn hai năm thực thi cam kết, cách suy nghĩ của người nông dân đã phần nào thay đổi nhưng vẫn chưa hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế thị trường ở cấp độ toàn cầu. Vì thế, bằng các biện pháp tích cực, không bị ràng buộc bởi các cam kết WTO, Nhà nước có thể giúp nông dân bằng con đường như: đổi mới và nâng cao chất lượng các hoạt động khuyên nông, khuyến ngư, khuyến lâm; thực hiện phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển kết cấu hạ tầng; nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực khu vực nông thôn; xây dựng môi trường văn hoá tiến bộ lành mạnh ở khu vực nông thôn nhằm giúp nông dân thoát dần ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Thứ ba, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, tranh thủ thời gian để thay đổi những tập quán sản xuất, kinh doanh không phù hợp với xu hướng hội nhập. Bên cạnh việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp; người nông dân phải có các biện pháp giữ gìn, bảo vệ thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp hiện đã được xác lập của Việt Nam như: gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, cá da trơn; gắn thương hiệu với tiêu chuẩn môi trường; đồng thời phải giữ vững chữ tín trong kinh doanh.
Thứ tư, khai thác tối đa những ưu đãi của WTO đối với các nước thành viên thuộc diện đang phát triển để nông nghiệp, nông thôn và nông dân hội
nhập có hiệu quả. Vào một “sân chơi” với các luật lệ đã có sẵn, chúng ta thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình, đồng thời cần khai thác triệt để các quyền được hưởng, nhằm phục vụ lợi ích quốc gia. Là một trong những nước đang phát triển, theo luật của WTO và các cam kết đã thỏa thuận, Việt Nam được hưởng ưu đãi về: quyền được mở rộng thương mại, xuất khẩu, thu hút vốn nước ngoài, nâng cao ý thức cạnh tranh, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống và quyền được hưởng những ưu đãi đối với các các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Như vậy, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần thông tin rõ, cụ thể và có biện pháp khai thác một cách có lợi nhất những ưu đãi được hưởng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân, để trên cơ sở đó, Nhà nước ban hành những chính sách phù hợp với đặc điểm của nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta hiện nay, giúp họ hội nhập vào nền kinh tế thế giới có hiệu quả.
Có thể bạn quan tâm!
- Tác Động Chung Đối Với Nền Kinh Tế
- Đề Án Phát Triển Thương Mại Trong Nước Đến Năm 2010 Và Định Hướng Đến Năm 2020.
- Một Số Định Hướng Nhằm Thực Thi Tốt Hơn Các Cam Kết Của Việt Nam Với Wto Trong Lĩnh Vực Thương Mại Hàng Hóa.
- Thực thi cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hoá: thực trạng tác động và định hướng - 12
- Thực thi cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hoá: thực trạng tác động và định hướng - 13
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
Thứ năm, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, từng bước chuyển lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đưa các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, yêu cầu đào tạo không cao về nông thôn, phát triển các làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời, nhà nước cũng cần tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành toàn bộ các nguồn vốn hỗ trợ trước đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tư phát triển thủy lợi, giao thông nông thôn. Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho tàng, cơ sở bảo quản, phơi sấy nhằm giảm hao hụt, đảm bảo chất lượng sản phẩm sau thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường nhằm ổn định giá cả, phát triển chợ nông thôn.
Thứ sáu, Nhà nước đứng ra giúp đỡ thành lập một hiệp hội nông nghiệp hữu hiệu cho nhà nông. Thực tế khi gia nhập WTO, người nông dân phải trực tiếp đương đầu với một sức ép lớn buộc họ phải thay đổi tư duy và thói quen làm việc. Hiện đại hóa nông thôn nhờ đó mà phát triển. Tuy nhiên, một số
nông dân lại không có khả năng thích nghi với điều kiện sản xuất mới. Mặc dù Nhà nước chưa có khả năng hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ngay nhưng có thể giúp nông dân tổ chức những hiệp hội để nhà nông - nhà kinh doanh - nhà hợp tác làm việc, qua đó chuyển giao kỹ thuật, công nghệ hoặc yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.
2.1.7. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngành công nghiệp
Thứ nhất, dể thực thi tốt hơn các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, chúng ta đã tiến hành cắt giảm thuế và hàng rào bảo hộ với nhiều ngành công nghiệp. Vì thế, để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng công nghiệp, chúng ta cần xác định đúng năng lực cạnh tranh của hàng hóa công nghiệp trên cả hai phương diện: thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Đối với hàng trong nước, yêu cầu hàng hóa có giá rẻ, chất lượng không kém nhiều so với hàng hóa nhập khẩu cùng loại. Còn đối với hàng hóa tiêu thụ trên thị trường quốc tế, yêu cầu cao hơn về chất lượng, sự độc đáo, khả năng thay đổi mẫu mã nhanh, khả năng cung cấp ổn định và nhiều yêu cầu khác quy định bởi các rào cản kỹ thuật cũng phải đáp ứng.
Nhóm hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh tương đối tốt của ta là hàng may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, gỗ…Các sản phẩm sử dụng nhiều lao động và có lợi thế so sánh cao vốn là thế mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian dài lợi thế về các nhóm sản phẩm này sẽ giảm và ngành công nghiệp sẽ gặp khó khăn nếu không nâng cao được năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp cao, sử dụng nhiều hàm lượng tri thức.
Thứ hai, chúng ta cần đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, khai thác năng lực toàn ngành nhằm duy trì mức tăng trưởng sản xuất hợp lý. Tập trung phát triển các ngành, các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao, có khả năng mở rộng thị trường. Cần có biện pháp tổ chức sản xuất thích hợp để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng gia tăng các sản phẩm có hàm lượng chế biến, các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Quan
tâm khai thác các mặt hàng sử dụng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động như chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ. Theo phương hướng ưu tiên từng ngành hàng chủ lực hay từng doanh nghiệp có vai trò trọng yếu, cần xây dựng và thực hiện chương trình sản xuất kinh doanh thích hợp. Cùng với các ngành hàng, mỗi địa phương nhất là ở những vùng trọng điểm cần có những biện pháp cụ thể để hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn đạt được mức tăng trưởng cao nhất. Tuy nhiên, không vì chú trọng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng cao và giá trị xuất khẩu lớn mà chúng ta lại quên phát triển các mặt hàng nhỏ, lẻ khác bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đóng góp một phần đáng kể vào tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Thứ ba, một trong những biện pháp quan trọng khác để thực thi các cam kết với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa đem lại hiệu quả cao nhất với nước ta là chúng ta cần đầu tư xây dựng các công trình công nghiệp để nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như của sản phẩm công nghiệp. Đầu tư cho công nghiệp phụ trợ để nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên, vật liệu trong nước. Khuyến khích mở rộng các quan hệ liên kết hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp, các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp trong vùng. Đầu tư vùng nguyên liệu công nghiệp cho công nghiệp chế biến và mở rộng hình thức liên kết, triển khai thực hiện có hiệu quả các nguồn vốn của Nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các dự án xây dựng lớn. Hơn hai năm qua, số vốn vào nước ta đã đạt con số kỉ lục đồng thời lượng vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến là rất lớn. Vì thế, chúng ta cần tiếp tục mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào nước ta. Đối với đầu tư trong nước, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư kinh doanh, phát triển mạnh qua các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên khắp các địa bàn.
Đối với các khu công nghiệp, tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu về mặt bằng cho các nhà đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp đang hoạt động bổ sung vốn đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư, chúng ta cần tăng cường hoạt động khoa học, công nghệ và đào tạo. Đẩy mạnh quá trình đổi mới công nghệ toàn ngành, chú trọng phát triển và thu hút các ngành công nghệ cao. Cùng với nhiệm vụ, giải pháp chung của toàn ngành, đối với từng ngành hàng, nhất là các ngành chủ lực cần xác lập các chương trình ứng dụng khoa học công nghệ tiến bộ phù hợp với mục tiêu phát triển chiến lược. Bên cạnh đó, cần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, người lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng lao động, trình độ kỹ thuật và tác phong công nghiệp.
2.2. Nhóm giải pháp đối với doanh nghiệp
Thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa khiến các doanh nghiệp trong nước phải chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của các doanh nghiệp nước ngoài. Vì thế, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm hiểu các quy định của WTO; đặc biệt là các cam kết có liên quan đến lĩnh vực thương mại hàng hóa để nắm được những lợi ích và thách thức phải đối mặt. Điều này cũng tạo tiền đề cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng lại các chiến lược và kế hoạch về sản xuất và kinh doanh của mình. Qua hai năm hội nhập, chúng ta có thể thấy rõ bốn yếu điểm của doanh nghiệp trong nước là số lượng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất kinh doanh nhìn chung còn lạc hậu và khả năng quản trị doanh nghiệp còn kém. Những hạn chế này có nguyên nhân khách quan, do một nền kinh tế còn phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải nhận thức được các hạn chế của mình, tận dụng cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại để đương đầu, vượt qua thử thách và khẳng định được chỗ đứng trên trường quốc tế.
2.2.1. Triển khai thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp
Tái cơ cấu được coi là biện pháp lâu dài và định hướng có tính chiến lược cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tái cơ cấu doanh nghiệp chính là việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, bằng cách xây dựng lại sơ đồ cơ cấu tổ chức, thay đổi các phòng ban chức năng với những tên gọi mới. Tái cơ cấu còn quan tâm đến tính hệ thống và chuyên nghiệp trong phương thức thực hiện, phối hợp và điều hành công việc. Các đề án tái cơ cấu doanh nghiệp vẫn đang được triển khai khá rộng ở Việt Nam, đặc biệt là sau khi Việt Nam tiến hành thực thi các cam kết với WTO. Các mô hình công ty mẹ - công ty con, mô hình tập đoàn không còn là mới mẻ nữa. Các doanh nghiệp đã chủ động đón nhận một cuộc chơi bình đẳng trong xu thế hội nhập. Có những doanh nghiệp đã kịp đổi mới, thích nghi mới môi trường cạnh tranh nhưng cũng có những doanh nghiệp chưa đủ khả năng để đối mặt với các thử thách mới. Vì thế, để đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp một cách sâu rộng và đồng bộ, các doanh nghiệp Việt Nam cần:
Thứ nhất, tổ chức mời đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm phổ biến những quan điểm về tái cơ cấu doanh nghiệp cho các thành viên trong công ty để mọi người nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Đồng thời quán triệt về nhận thức và hành động trong các đơn vị thành viên để việc triển khai tái cơ cấu được thực hiện đúng thời điểm, đúng trọng tâm và đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, cần đào tạo và trang bị cho đội ngũ lao động những kiến thức cần thiết để có khả năng thích ứng với mô hình mới, vấn đề mới sau khi tái cơ cấu doanh nghiệp. Quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp bao gồm tái cơ cấu tổ chức và quản lý, tái cơ cấu tài sản, sản phẩm, thị trường, lao động...Việc cắt giảm hay thuyên chuyển lao động giữa các đơn vị sản xuất hay các phòng ban sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động. Khi người lao động không kịp thích nghi với mô hình mới, công ty sẽ làm ăn không hiệu quả. Vì thế, để tránh tình trạng này, doanh nghiệp cần cung cấp cho người lao động những
thông tin cần thiết liên quan đến lợi ích và trách nhiệm của họ, để họ có kế hoạch chủ động trong công việc. Đồng thời, các doanh nghiệp cần tổ chức tập huấn, trang bị những kiến thức cần thiết với vị trí công việc mới của người lao động để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, tái cơ cấu phải đúng lúc thì mới đạt hiệu quả cao nhất. Các doanh nghiệp cần tích cực phân tích tình hình sản xuất kinh doanh nội bộ cũng như tình hình đối thủ cạnh tranh và môi trường kinh doanh để nắm bắt thời cơ tái cơ cấu.
Như vậy, tái cơ cấu là một trong những nhân tố bước đầu tạo nên thành công cho doanh nghiệp trong giai đoạn Việt Nam thực thi các cam kết với WTO về mở cửa thị trường hàng hóa.
2.2.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần nhận thức rõ khi thực thi các cam kết với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, cạnh tranh trên thị trường sẽ diễn ra ngày càng gay gắt, đặc biệt là cạnh tranh về giá. Vì thế các doanh nghiệp cần phải coi yêu cầu giảm giá thành và phí lưu thông là vấn đề quan trọng sống còn, phải ra soát lại từng công đoạn trong quá trình sản xuất lưu thông, triệt để tiết kiệm chi phí nguyên liệu, năng lượng và các chi phí quản lý khác, thiết lập những quy trình sản xuất, những phương thức bảo đảm hậu cần - vận tải và công nghệ quản lý mới. Sau đây là một số đề xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế so sánh sẵn có đồng thời tạo ra lợi thế so sánh mới cho mình. Lợi thế sẵn có mà thiên nhiên ban tặng cho nước ta là nguồn tài nguyên dồi dào và vị trí địa lý khá thuận lợi cho giao thương. Bên cạnh đó, tiền công lao động nước ta cũng rẻ hơn so với các nước phát triển nên chúng ta có thể tận dụng lợi thế này để sản xuất các sản phẩm với giá rẻ hơn, đủ sức cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài. Tuy nhiên, việc giảm thuế nhập khẩu đã làm giá cả hàng ngoại trở nên rẻ hơn, phù hợp