4. Coi trọng phát triển thị trường trong nước đi đôi với mở rộng thị trường xuất khẩu, quản lý tốt nhập khẩu. Đẩy mạnh và phát triển thương mại dịch vụ.
5. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản pháp luật phục vụ phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Chuẩn bị sẵn sàng chấp nhận thách thức mở cửa thị trường để các ngành kinh tế phải vươn lên không trông chờ mãi vào bảo hộ của Nhà nước. Tích cực cải cách chính mình cả về nhà nước và doanh nghiệp.
7. Đào tạo nguồn nhân lực cho tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế phổ biến, đẩy mạnh công tác nghiên cứu phục vụ quá trình hội nhập KTQT
Đổi mới việc xây dựng chính sách thương mại đã làm cho quá trình đàm phán và cam kết thương mại quốc tế của nước ta chuyển từ thế bị động trở thành chủ động, góp phần đẩy nhanh việc hoàn thành mục tiêu của chính sách thương mại là phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế so sánh của đất nước. Chính sách thương mại không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các cam kết, mà ngược lại sẽ chi phối tiến trình thực hiện các cam kết của nước ta.
Không chỉ đặt mục tiêu tham gia hiệu quả trong khuôn khổ liên kết thươngmại đa phương WTO, việc nghiên cứu tham gia các thiết chế liên kết thương mạisong phương và khu vực (FTA/RTA) cũng rất quan trọng. Trong xu thế liên kết khu vực ngày càng đa dạng và mạnh mẽ như hiện nay, nước ta cùng một lúc phải xử lý nhiều mối quan hệ phức tạp với ASEAN, APEC và gần đây là sự thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Hàn Quốc. Hiện nay, chúng ta vẫn đang tiếp tục đàm phán để xây dựng FTA với một số nước. Điển hình là chúng ta đang đàm phán để ký kết hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (EPA) nhằm thúc đẩy đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam cũng như tăng cường mối giao thương và xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ từ Việt Nam sang Nhật Bản. Mỗi liên kết và mỗi thiết chế khu vực và quốc tế có những tính chất và đặc trưng khác nhau. Sự tương tác giữa chúng có thể ảnh hưởng mạnh đến lợi ích quốc gia thông qua sự vận động của các luồng hàng hóa và dịch vụ của nước ta với thế giới, trực tiếp ảnh hưởng đến
vấn đề xây dựng lộ trình hội nhập KTQT quốc gia. Nhưng cho đến nay, các cơ quan nghiên cứu và dự báo của ta chưa thực sự làm tốt vai trò "đi trước", xây dựng cơ sở lý luận vững chắc cho quá trình hội nhập KTQT. Các nghiên cứu như vậy hầu như chưa có hoặc nếu có cũng còn sơ sài và chưa phát huy hiệu quả. Trên thực tế, các cơ quan đàm phán phải thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ này, trong khi cả về nhân lực và vật lực đều không cho phép họ thực hiện chúng một cách có hiệu quả. Thiếu cơ sở nghiên cứu khoa học, hội nhập KTQT trở nên thụ động và không thể tạo nên những nét đột phá mới cho đất nước để phát huy mạnh hơn các lợi thế của mình đối với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Vì vậy, một trong những vấn đề cần có sự đổi mới hiện nay là củng cố năng lực nghiên cứu, nâng cao khả năng tư vấn của các cơ quan nghiên cứu như Viện nghiên cứu thương mại, Viện nghiên cứu kinh tế và chính trị thế giới, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và các trường đại học đối với các cơ quan quản lý chức năng. Các cơ quan nghiên cứu phải được tham gia một cách cụ thể và có chiều sâu, xứng đáng hơn với vị trí tiên phong về lý luận trong công tác hội nhập KTQT của đất nước. Trong thời gian tới, những công việc cần tập trung giải quyết hiệu quả, đó là:-
- Tăng cường sự tham gia của hệ thống các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc các Bộ/ngành hữu quan, các viện, trường đại học trong nước đối với quá trình xây dựng chính sách thương mại và hội nhập KTQT. Cụ thể là, các cơ quan nghiên cứu cần có tiếng nói hơn trong xây dựng chính sách thương mại. Đổi mới phương pháp xây dựng chính sách thương mại đòi hỏi có những cơ quan chuyên trách thường xuyên theo dõi, nghiên cứu và đánh giá năng lực xuất khẩu, cạnh tranh của các ngành kinh tế để kịp thời phát hiện ra những mặt hàng, dịch vụ có tiềm năng phát triển làm căn cứ thực thi chính sách bảo hộ hay tự do hóa thương mại của nước ta
- Xây dựng qui trình phối hợp cụ thể giữa cơ quan đàm phán thương mại quốc tế với các cơ quan nghiên cứu trong các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn nhằm gắn mục tiêu đàm phán quốc tế với các đề xuất, tư vấn cụ thể của các cơ
quan nghiên cứu. Quy trình này bao gồm từ việc định hướng mục tiêu nghiên cứu, trao đổi thông tin cập nhật về tình hình hội nhập, tổ chức xây dựng các phương án đàm phán...
- Xây dựng cơ chế nghiên cứu chung giữa các viện nghiên cứu thuộc các Bộ ngành. Hiện tại, ủy Ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế giữ vai trò đầu mối trong việc điều phối và hỗ trợ các Bộ/ngành, các cơ quan nghiên cứu liên quan đến công tác hội nhập. Tuy nhiên, hiệu quả nhìn chung thấp, các nghiên cứu còn rời rạc và thiếu định hướng hội nhập cụ thể cho từng đối tác, từng khu vực; Vì vậy, cần có sự phối kết hợp tốt hơn, hiệu quả hơn trong nghiên cứu, phổ biến và bồi dưỡng các kiến thức về hội nhập KTQT.
- Củng cố các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các cơ quan nghiên cứu;
- Tăng cường đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ nghiên cứu, đặc biệt nâng cao kiến thức về chuyên môn sâu theo từng ngành kinh tế (điều mà thực sự ta đang có nhiều hạn chế) kết hợp với bổ sung kiến thức ngoại ngữ, qui định và luật lệ thương mại quốc tế;
- Mở rộng việc phổ biến các kiến thức về hội nhập một cách sâu rộng, rộng rãi cho các học sinh, sinh viên và các chuyên gia nghiên cứu, các nhà lãnh đạo, nhà quản lý. Đây là công việc rất quan trọng góp phần đổi mới quan điểm chung của xã hội về hội nhập KTQT.
- Triển khai phổ biến sâu rộng các cam kết cũng như kế hoạch hành động của Việt Nam để các doanh nghiệp và các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện hiệu quả.
3.3.3. Đổi mới chính sách thương mại hàng hóa
3.3.3.1. Điều chỉnh kế hoạch tự do hoá thương mại hàng hóa phù hợp tiến trình tham gia WTO cùng các cam kết quốc tế khác
Hiện tại, những cam kết quốc tế của Việt Nam đã hình thành những mốc quan trọng chi phối xu hướng tự do hóa thương mại của Việt Nam. Các cam kết tự do hóa thương mại hàng hóa của nước ta được biểu diễn bằng các lộ trình khác nhau như mô tả trong sơ đồ 3.1 Cam kết tự do hóa thương mại của Việt Nam theo CEPT/AFTA là mạnh và triệt để nhất cho đến nay (nhìn trên đường a). Theo đó, đến
năm 2003, 755 dòng thuế còn lại trong TEL đã chuyển sang IL, đánh dấu việc hoàn thành một bước quan trọng đến với mục tiêu tự do hóa thương mại của Việt Nam trong AFTA (đường a trên sơ đồ). Đến năm 2006, phần lớn dòng thuế của Việt Nam áp dụng cho các nước ASEAN đã giảm xuống 0-5%. Không dừng lại ở kết quả đó, ASEAN đang nỗ lực cắt giảm thuế quan xuống 0% vào năm 2010 đối với các nước ASEAN 6 và 2015 đối với các nước Việt Nam, Lào, Myanma và Campuchia (gọi tắt là CLMV).
Bảng 3.1: Tình hình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam
Số dòng thuế (AHTN cấp 8 số) | Tỷ lệ (%) | |
Danh mục cắt giảm thuế (IL) | 10.227 | 96.15 |
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) | 14 | 0,13 |
Danh mục loại trừ (GEL) | 371 | 3,47 |
Danh mục nhạy cảm (SEL) | 27 | 0,25 |
Tổng số | 10. 639 | 100 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đối Xử Tối Huệ Quốc (Mfn) - Lợi Ích Tiềm Năng Của Việc Gia Nhập
- Mở Rộng Thị Trường Và Tăng Xuất Khẩu (Nông Nghiệp, Dệt- May.)
- Những Thách Thức Trong Các Lĩnh Vực Cụ Thể Sau Khi Gia Nhập
- Hệ Số Cạnh Tranh Hiện Hữu (Rca) Trong Một Số Ngành
- Nâng Cao Hiệu Lực Của Chính Sách Thương Mại Dịch Vụ
- Phân Tách Cơ Quan Hành Chính Công Quyền Với Các Đơn Vị Hành Chính Sự Nghiệp
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Nguồn: Bộ Tài chính (2006)
Tuy quá trình tham gia CEPT/AFTA khá sâu, nhưng AFTA chưa tạo ra chuyển dịch căn bản trong cơ cấu kinh tế của đất nước. Cơ hội khai thác chuyên môn hóa cấp khu vực để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường ngoài khối cũng không rõ nét. Một số mặt hàng điện tử tiêu dùng, giấy in, xi măng, thép xây dựng không có định hướng xuất khẩu đã phải chịu cú "sốc" đầu tiên do đợt cắt giảm thuế từ năm 2003 đến 2006.
Trong khi Việt Nam chưa tranh thủ đầy đủ và hiệu quả AFTA thì chúng ta đã phải đối mặt với những thách thức mới. Những động thái gần đây của các nước ASEAN đã làm thay đổi "luật chơi" trong quan hệ thương mại khu vực. Thật vậy, việc ASEAN và Trung Quốc hình thành một Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) càng đẩy nhanh tiến trình tự do hóa thương mại của nước ta. Nhìn trên đường b, đoạn gấp khúc từ 2004 đến 2006 là cam kết của Việt Nam theo chương trình thu hoạch sớm của ACFTA (từ năm 2004, thực hiện tự do hóa các dòng thuế từ chương 1 đến 8) để sau đó tiếp tục tự do hóa thương mại hoàn toàn. Theo cam kết, ASEAN 6 và Trung Quốc sẽ hoàn thành tự do hóa vào năm 2010 và các nước
CLMV là năm 2015. Tại thời điểm 2010, dự kiến nước ta phải thực hiện mức độ tự do hóa đáng kể (đoạn gấp khúc từ 2004 đến 2010 trên đường b) trong khi ASEAN 6 và Trung Quốc đã hoàn thành cam kết tự do hóa. Về cơ bản, tại thời điểm 2010, những mặt hàng chưa cam kết tự do hóa sẽ chỉ là một số mặt hàng nhạy cảm được tiếp tục duy trì bảo hộ đến năm 2015 (36).
Tự do hoá hàng hoá trong ASEAN căt giảm theo lộ trình
Mức độ tự do hoá
Tự do hoàn toàn
a b c
Mức độ cam kết MFN trong khuôn khổ
WTO
Mức độ cam kết trong khuôn khổ ACFTA
Đóng cửa
Thời gian
2001 2003 2004 2006 2010 2015 2020
Sơ đồ 3.1: Các lộ trình cam kết tự do hóa thương mại hàng hóa của Việt Nam
Nguồn: Bộ thương mại (2005)
Đáng lưu tâm là sự trùng hợp của ACFTA với AFTA về mục tiêu tự do hóa rõ ràng đã làm mất đi ý nghĩa ban đầu của AFTA là xây dựng sức cạnh tranh của nội bộ khu vực. Nhìn trên sơ đồ 3.1, đường b đang tiến gần hơn với đường a. Chưa hết, ACFTA dự kiến cũng chỉ là sự mở màn cho một loạt động thái khác để xây dựng các khu vực mậu dịch tự do. Theo kế hoạch, ASEAN và các đối tác thương mại quan trọng như Nhật Bản, Australia, Ấn Độ, Hoa kỳ sẽ dần tiếp cận đến việc thiết
36 Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc (Phần II, Điều III)
lập khu vực mậu dịch tự do với ASEAN cũng theo các mục tiêu thời gian tương tự như ACFTA(37). Đối với Việt Nam, điều đó hầu như đồng nghĩa với việc đẩy nhanh mục tiêu tự do hóa thương mại trên cơ sở đa phương vì cả ASEAN và các đối tác thương mại này đã chiếm đến gần 80% kim ngạch thương mại của đất nước.
Với hiện trạng chính sách thương mại như hiện nay, chúng ta sẽ phải làm nhiều việc để từng bước giảm thiểu bảo hộ ít nhất tương đương với các nước đang phát triển và các nước mới gia nhập trong thời gian gần đây (38). Trong điều kiện như vậy, nước ta cần phải nhanh chóng điều chỉnh chính sách thương mại theo một
cách tiếp cận mới, nhằm tránh khả năng tiếp tục lâm vào tình trạng bị động do sự chênh lệch giữa yêu cầu tự do hóa thương mại khu vực và quốc tế và hiện trạng chính sách thương mại của đất nước. Cụ thể là:
- Xác định hoặc điều chỉnh mục tiêu của chính sách thương mại giai đoạn đến năm 2015. Cho đến năm 2015, ta cần hoàn thành tự do hóa thương mại hàng hóa. Mục tiêu này nhìn chung hiện thực hoá sớm hơn các mục tiêu mà Đảng và nhà nước ta đã xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010) và cam kết trong khuôn khổ APEC (Tuyên bố Bogor) và ASEAN (Tầm nhìn ASEAN 2020).
- Thực hiện tự do hóa từng bước và trên cơ sở đa phương Các mục tiêu của chính sách thương mại về thuế quan, ưu tiên các sản phẩm hướng xuất khẩu, kiện toàn khung pháp lý v.v..sẽ quyết định mức độ tự do hóa, trước hết là trong khuôn khổ đa phương theo cam kết gia nhập WTO trong năm 2006 vừa qua. Xúc tiến hơn nữa tự do hóa cấp khu vực trong khuôn khổ hợp tác của ASEAN như ACFTA. Mở rộng cam kết các đối tác khác để cân đối tốt nhất lợi ích của đất nước.
3.3.3.2. Xây dựng cơ chế bảo đảm hiệu lực của chính sách thương mại
Xác định mục tiêu của chính sách thương mại để từng bước cắt giảm thuế quan bảo hộ là điều kiện thuận lợi để ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, nâng cao hiệu quả của chính sách thương mại. Đối với nước ta, tự do hóa thương mại, hội nhập KTQT diễn ra trong bối cảnh cơ chế kinh tế trong nước chưa hoàn
37 Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Phnôm Pênh tháng 11/2002, ASEAN và những nước này đã thảo luận về khả năng đó sau khi ACFTA được ký kết.
38 Xem phụ lục 11 Yêu cầu về mức độ cắt giảm thuế quan trong WTO và bảng 2.1.
toàn thích nghi với cơ chế thị trường. Nhưng tác động của tự do hóa thương mại có thể mang đến những ảnh hưởng tiêu cực bất ngờ. Vì vậy, hệ thống quản lý thương mại của nước ta cũng cần có những thay đổi phù hợp, trong đó đặc biệt quan trọng là vấn đề nâng cao trình độ kỹ thuật và nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ quản lý và thực thi để bảo đảm tính hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế của chính sách thương mại. Tác giả xin đề xuất một số kiến nghị cụ thể như sau:
a. Cắt giảm thuế quan theo yêu cầu của WTO với định hướng ưu tiên xuất khẩu
Để chủ động cắt giảm thuế quan đáp ứng yêu cầu của WTO, các cơ quan chức năng phải nghiên cứu các mục tiêu bảo hộ và tự do hoá trong chính sách thương mại nhằm đảm bảo hiệu lực của biểu thuế, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước cũng như yêu cầu điều chỉnh thuế quan theo kết quả đàm phán gia nhập WTO. Tác giả đề xuất sử dụng hệ số lợi thế cạnh tranh hiện hữu (RCA) để đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu một sản phẩm (xem bảng 3.2) (39). Chính sách thương mại của nước ta cần tiếp tục điều chỉnh theo hướng sau:
(1) Những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh rõ nét hầu hết là những mặt hàng sử dụng nhiều lao động trong nước hoặc đang khai thác tài nguyên sẵn có, vốn đầu tư thấp, khả năng thu hồi vốn nhanh. Nổi bật nhất là các mặt hàng như may mặc, giày da, các sản phẩm tươi sống chủ yếu là hải sản, rau, hoa quả tươi, may mặc, khoáng sản, dầu thô. Theo nguyên tắc, những mặt hàng này không thuộc mụctiêu của chính sách bảo hộ và nên duy trì mức thuế thấp. Ví dụ, đối với các sản phẩm may mặc, ta đã có lợi thế rất rõ rệt nhưng trước đây mức thuế quan lại rất cao (30- 50%) do đó nên được điều chỉnh giảm dần. Hiện nay, theo kết quả đàm phán WTO, ta đã giảm mạnh thuế suất xuống mức 5-12%.; Ngành da giày cũng đã khẳng định được thế mạnh xuất khẩu, tuy thuế suất hiện tại không cao (trung bình 15%) nhưng vẫn nên điều chỉnh giảm vì mức độ đó vẫn còn cao so với mặt bằng chung (dự kiến thuế suất trung bình của ta là 12%). Đối với các sản phẩm nông
39 Công thức RCA này dựa trên công thức do Viện nghiên cứu phát triển và thông tin Paris (CEPII) là một chỉ số về cơ cấu kinh tế của đất nước dựa trên mức độ đóng góp tương đối của ngành vào cán cân thanh toán (ICTB). Công thức này được phát triển trên cở sở công thức kinh điển của nhà kinh tế học người Hungary Balassa (1965).
nghiệp sơ chế ta cũng có lợi thế rất rõ nét, mức xuất siêu của ta với các nước kể cả ASEAN và Trung Quốc đều rất lớn(40). Trong khi đó, thuế suất hiện tại trong ngành thuỷ sản chưa chế biến vẫn rất cao (Trung bình khoảng 30%). Các ngành hàng là cà phê, chè, ngũ cốc (chủ yếu là lúa gạo), đều có thuế suất phổ biến là 30%, nhiều sản phẩm có thuế suất lên đến 50%, hoa quả tươi các loại, ta đang xuất siêu rất lớn nhưng thuế suất đến 30% là quá cao. Duy trì thuế suất cao như vậy hoàn toàn không cần thiết, nhất là trong điều kiện ta cần điều chỉnh giảm thuế cho
phù hợp với yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, một số sản phẩm chỉ nên giảm và duy trì ở mức trung bình (từ 10 -15%) vì qui mô thị trường đối với các sản phẩm này là tương đối lớn ví dụ chè xanh (mức tiêu thụ trong nước là 30% sản lượng - khoảng 25.000 tấn), gạo (tiêu thụ trong nước khoảng trên 80% sản lượng) và một số sản phẩm may mặc (tiêu dùng trong nước khoảng 30% sản lượng), đồ dùng, nội thất có sức tiêu thụ trên thị trường lớn. Đây cũng là những mặt hàng thu hút số lượng lao động lớn, chuyên môn không cao và rất thích hợp với kinh tế của nước ta trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá. Một xu hướng ngày càng rõ nét là các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu đang quan tâm nhiều hơn đến thị trường nội địa, đặc biệt là hàng may mặc, nội thất.v.v. sẵn sàng đối đầu với các doanh nghiệp nước ngoài khi gia nhập WTO.
(2) Những nhóm mặt hàng mà lợi thế so sánh tương đối rõ nét nhưng chưa ổn định đó là những mặt hàng chủ yếu là các sản phẩm công nghiệp nhẹ hoặc lắp ráp, qui mô sản xuất nhỏ, khả năng ứng dụng kỹ thuật nhanh và thu hồi vốn cao như gỗ và sản phẩm gỗ, thực phẩm chế biến, sản phẩm từ da thuộc, đồ chơi và dụng cụ thể thao, sản phẩm máy móc thiết bị nhỏ, quang học, mỡ và dầu động thực vật. Đây là những mặt hàng bước đầu đã khẳng định được khả năng xuấtkhẩu (lợi thế so sánh) nhưng chưa thật sự ổn định và cần được xem là các sảnphẩm thuộc đối tượng bảo hộ cao nhất của để thúc đẩy và giữ vững hiệu quả vàphát triển xuất khẩu. Trong tương lai, chuyển đổi cơ cấu thương mại Việt Nam phụ thuộc rất lớn đối với những sản phẩm này.
40 Từ năm 2000 đến nay, xuất khẩu đến ASEAN khoảng 30 triệu USD và Trung Quốc là gần 400 triệu USD (Bộ Thương mại)