Tổng Quan Các Nghiên Cứu Trong Nước Và Ngoài Nước

- Nguyên nhân:

- Đẻ khó do nguyên nhân cơ thể mẹ: khi chăm sóc, nuôi dưỡng không tốt, thức ăn không đầy đủ, chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu của lợn mang thai dẫn đến cơ thể mẹ suy nhược, sức khỏe kém. Trong quá trình đẻ, sức rặn đẻ của lợn yếu, thậm trí không rặn đẻ, cổ tử cung co bóp yếu nên không đẩy thai ra ngoài.

Lợn ăn quá nhiều tinh bột, protein dẫn đến béo cũng gây ra đẻ khó. Lợn quá gầy cũng dẫn đến đẻ khó.

Do cấu tạo tổ chức các phần mềm như: cổ tử cung, âm đạo giãn nở không bình thường, có chỗ giãn quá mạnh, chỗ lại không giãn nên việc đẩy con ra ngoài gặp khó khăn.

Khung xoang chậu bị biến dạng, khớp bán động háng phát triển không bình thường, vôi hóa cột sống hay xoang chậu hẹp. Trong quá trình đẻ độ giãn nở kém, thai bị mắc trước cửa xoang chậu không ra được. Khi quá trình rặn đẻ kéo dài, sức co bóp lớn ép lợn con bị chết.

Ở thời gian có thai kỳ cuối, thai quá to, lợn nái vận động mạnh, chèn ép tử cung làm tử cung bị xoắn vặn lại, tư thế tử cung thay đổi, đường sinh dục trở nên không bình thường cũng gây đẻ khó.

Do rối loạn hormone tuyến sinh dục cái: kích tố nhau thai relaxin lúc đẻ tiết ra ít nên không làm mất lớp canxi ở bán động háng, không giãn dây chằng xương chậu (không sụt mông) hoặc prostagladin tiết ít không đủ gây co bóp tử cung nên không tống thai ra ngoài được.

Chế độ dinh dưỡng không phù hợp hoặc do quá ít thai, làm thai quá to không phù hợp với kích thước của xương chậu và đường sinh dục của lợn mẹ. Thai bị dị hình hay quái thai.

Đẻ khó do nguyên nhân bào thai thường chiếm 3/4, những nguyên nhân và loại hình đẻ khó có thể xảy ra đơn độc hoặc kết hợp lại với nhau như bào

thai quá to mà xương chậu lại quá nhỏ, thai to cộng với tư thế thai không bình thường… khi rặn đẻ thai bị kẹt không ra được.

- Triệu chứng:

Lợn nái đến ngày đẻ, nước ối vỡ ra, trong nước ối có lẫn phân su nhưng không thấy thai ra. Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng thai vẫn không ra. Do thời gian rặn đẻ mạnh và kéo dài mà thai vẫn không ra làm cho lợn nái mệt mỏi. Nếu để lâu có thể dẫn đến hiện tượng thai bị ngạt mà chết. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu.

- Hậu quả

Tử cung co bóp mạnh mà thai không ra, thai bị chèn ép, bị ngạt thở dẫn đến lợn con bị chết.

Nếu mổ để lấy thai ra ngoài thì lợn mẹ hay bị chết hoặc không thể dùng sinh sản lứa sau.

Do lợn nái rặn đẻ mạnh và kéo dài làm lợn nái mệt mỏi, kéo dài thời gian đẻ, sức co bóp của tử cung giảm, gây ra hiện tượng sót nhau, sót con dẫn đến viêm đường sinh dục.

Khi dùng biện pháp can thiệp không đúng cách, gây sây sát niêm mạc tử cung, hoặc dụng cụ thủ thuật không đảm bảo vệ sinh làm lợn bị nhiễm một số bệnh: viêm tử cung, viêm vú, sảy thai truyền nhiễm… khi đó, niêm mạc sẽ có những vết sẹo gây cản trở cho quá trình thụ thai, thai làm tổ… dẫn đến xảy thai, tiêu thai, đẻ non ở những lần sinh sản tiếp theo, thậm chí là vô sinh.

2.2.3.5. Bệnh bại liệt sau sinh

Là bệnh mà lợn mẹ mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai.

- Nguyên nhân:

- Do thai quá to, tư thế và chiều hướng của thai không bình thường.

- Quá trình thủ thuật kéo thai quá mạnh hay không đúng thao tác…

Từ đó gây tổn thương thần kinh tọa hoặc ảnh hưởng đến đám rối hông khum, làm cho → lợn mẹ bại liệt.

- Biểu hiện bệnh:

- Lúc đầu lợn mẹ đi lại khó khăn, về sau không đứng lên được mà nằm bẹp 1 chỗ.

- Bệnh thường kế phát với 1 số bệnh ở hệ tiêu hóa, hô hấp như: chướng bụng đầy hơi, viêm phế quản cấp.

- Nếu bệnh kéo dài, con vật dễ bị loét từng mảng da phía tiếp xúc với nền chuồng.

- Sau 3 - 4 tuần con vật gầy dần và chết.

- Biện pháp khắc phục:

- Thao tác can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật.

- Hằng ngày trở mình cho lợn mẹ, tránh bần huyết, hoại tử da và kế phát với chướng bụng, đầy hơi.

- Tăng cường thức ăn có bổ sung nguyên tố vi lượng nhất là canxi và photpho.

- Tiêm Mg - calcium cho lợn. Đồng thời kết hợp với châm cứu.

2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước

2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước

Nước ta ngành chăn nuôi rất được nhà nước quan tâm và phát triển, ngành chăn nuôi lợn đã được nhà nước đầu tư kinh phí cho rất nhiều dự án để nghiên cứu về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nói chung và lợn nái nói riêng.

Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [4], trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1h đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì

pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục.

Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [6], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50 %, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ 20 %, còn lại 80 % là viêm tử cung.

Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái. Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ 2004 [11]).

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [11], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây sây sát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo.

Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [18], kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung trên 620 lợn nái ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho thấy: Tỷ lệ nhiễm viêm tử cung ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57 % tới 61,07 %. Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8.

Theo Trần Ngọc Bích và cs (2016) [1] Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13 %.

Chữa bệnh viêm tử cung bằng cách: sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao: streptomycin 0,25g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1 % 40 ml và bổ sung VTM C (Smith và cs, 1995) [30].

Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [7], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm Amoxi 15 % 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao.

Khi gây bệnh thực nghiệm trên chuột và lợn, vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae và vi khuẩn Pasteurella multocida phân lập được có độc lực cao đối với chuột bạch và lợn, đồng thời khẳng định vi khuẩn là một trong những nguyên nhân chính gây bệnh đường hô hấp ở lợn. Tác giả đã sử dụng kết quả này làm cơ sở cho việc lựa chọn chủng để chế autovắc xin phòng bệnh đường hô hấp cho lợn do các vi khuẩn nêu trên gây ra. Mặt khác, còn cho biết vi khuẩn mẫn cảm cao với các loại kháng sinh Rifampicin, Ceftazidin, Ciprofloxacin và khuyến cáo nên sử dụng các loại kháng sinh này để điều trị cho lợn mắc bệnh đường hô hấp.

Khi giám định một số đặc tính sinh vật học của Actinobacillus pleuropneumoniae cũng khẳng định vi khuẩn bắt màu gram âm, gây dung huyết mạnh, không di động, không mọc trên môi trường Macconkey, không sinh Indol, phản ứng catalase, oxidase cho kết quả thất thường, phản ứng Urease dương tính, lên men các loại đường Maltose, Mannitol, Mannose, Xylose, lên men thất thường các loại đường Galactose, Lactose, không lên men các loại đường: Glucose, Arabinose, Sorbitol.

Trần Tiến Dũng và cs (2002) [6] cho biết, khi gia súc bị bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp

yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng thêm. Tác giả đề nghị nên dùng oxytocin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ.

2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài

Chăn nuôi lợn ở nước ngoài đã được quan tâm và phát triển từ lâu ở các nước Châu Âu, họ có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh lý của con lợn nái và các bệnh, cách trị bệnh trên con lợn nái sinh sản.

Theo Urban V.P. và cs (1983) [32], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E. coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp.

Theo Smith B.B. và cs (1995) [30], Taylor D.J. (1995) [31], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5 %, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1 %, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ.

Theo Urban và cs (1983) [32], điều trị viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả. Xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược độc học cho phép đáp ứng tốt hơn phương pháp điều trị.

Theo Trekaxova và cs (1983) [26], về chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch Novocain 0,5 % liều từ 30 - 40 ml cho

mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 8 - 10cm. Dung dịch Novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị Penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong Novocain này, từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần.

Theo Smith và cs (1995) [30], chữa bệnh viêm tử cung bằng cách sử dụng phương pháp tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả cao. Streptomycin 0,25g, Penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml + vitamin C.

Phần 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

3.1. Đối tượng

Lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ nuôi tại trang trại Thanh Vân, Tam Dương, Vĩnh Phúc.

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành

- Địa điểm: Trại Thanh Vân, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Thời gian tiến hành: từ ngày 18/5/2019 đến ngày 25/11/2019.

3.3. Nội dung thực hiện

- Điều tra tình hình chăn nuôi tại trại Thanh Vân, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Thực hiện qui trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ.

- Phòng và trị một số bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ.

3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện

3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện

- Tình hình chăn nuôi lợn tại trại Thanh Vân, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc trong 3 năm (2017 - 2019).

- Cơ cấu của đàn nái sinh sản tại trại.

- Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại.

- Biện pháp vệ sinh phòng bệnh.

- Lịch tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại.

- Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại

- Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái của trại

3.4.2. Phương pháp thực hiện

- Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi: để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại em tiến hành thu thập thông tin từ trại, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trang trại.

- Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái sinh sản nuôi tại trại: thực hiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái chửa, lợn nái nuôi con và lợn con theo mẹ theo quy trình chăn nuôi của trang trại.

- Phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn: để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, em tiến hành theo dõi hàng ngày, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể, bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ viêm, phân.... ghi chép vào sổ theo dõi hàng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại.

3.4.3. Phương pháp xử lí số liệu

- Tỷ lệ lợn mắc bệnh:

Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) =

∑ số lợn mắc bệnh

∑ số con theo dõi

x 100

- Tỷ lệ lợn khỏi: Tỷ lệ khỏi (%) =

∑ số con khỏi bệnh

∑ số con điều trị

x 100

- Tỷ lệ tiêm phòng:

Tỷ lệ tiêm phòng (%) =

∑ số con được tiêm phòng

x 100

- Tỷ lệ lợn con được thực hiện thao tác phẫu thuật:

Tỷ lệ thực hiện (%) =

∑ số con thực hiện phẫu thuật

∑ lợn con

x 100

Phần 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Thanh Vân, Tam Dương, Vĩnh Phúc trong 3 năm gần đây

Trong thời gian thực tập em đã tìm hiểu và thu thập được một số thông tin về tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm từ (2017 - 2019) và được trình bày cụ thể trong bảng 4.1.

Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn Thanh Vân, Tam Dương,

Vĩnh Phúc qua 3 năm 2017 - 2019

Loại lợn

Số lượng lợn qua các năm (con)

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019 (6/2019)

Nái hậu bị

320

280

200

Nái được phối

3120

3276

1664

Tổng lợn con sinh ra

35282

36972

18798

Tổng số lợn con cai sữa/ năm

31000

34300

17800

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 49 trang tài liệu này.

Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Thanh Vân, xã Thanh Vân, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc - 3

(Nguồn: Bộ phận thống kê của trại Thanh Vân, Tam Dương, Vĩnh Phúc)

Số liệu bảng 4.1 cho thấy: số lượng lợn nái hậu bị nhập vào của trại năm 2018 giảm so với năm 2017 do giá lợn năm 2018 giảm và cơ cấu đàn đang dần ổn định. Mỗi năm trại nhập nái hậu bị 2 đợt, mỗi đợt từ 150 - 200 nái. Năm 2018 số lợn con tăng lên so với năm 2017 là 1690 con. Số lượng lợn con chết và loại giảm đáng kể qua từng năm. Năm 2018 tổng số lợn con cai sữa/ năm tăng so với năm 2017. Tổng số lượng con sinh của năm 2017 là 35282 con, trong khi đó 6 tháng của năm 2019 đạt 18798 con. Cũng như thế, đối với lượng con cai sữa của năm 2017 là 31000 con trong khi đó 6 tháng của năm 2019 đạt mức 17800 con.

4.2. Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản

4.2.1. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập

Qua 6 tháng thực tập tại trại em đã trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đàn lợn, kết quả được trình bày ở bảng 4.2.

Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập

(Đơn vị: con)

Tháng

Nái đẻ, nuôi con

Lợn con đẻ ra

Lợn con cai sữa

6

60

705

680

7

60

710

683

8

60

720

700

9

59

708

678

10

58

707

670

11

60

720

687

Tổng

357

4270

4098

Số liệu bảng 4.2.cho thấy, số lượng lợn nái và số lượng lợn con mà em trực tiếp chăm sóc trong 6 tháng là 357 con lợn nái, đây là những lợn nái chửa ở giai đoạn cuối 100 - 114 ngày, đã được chuyển lên chuồng nái đẻ để chờ đẻ và tập làm quen với chuồng đẻ. Khi lợn chuyển lên chuồng đẻ thì thẻ nái được gắn vào mỗi bảng cám đầu ô chuồng, ghi ngày đẻ dự kiến, ghi bảng cám để tiện cho ăn và chuẩn bị đỡ đẻ.

Khi chăm sóc lợn nái bầu giai đoạn 1 tuần trước khi đẻ phải chú ý về khẩu phần ăn của từng con lợn, khi tra cám lợn phải nhìn vào bảng cám của từng con, nếu cho ăn quá nhiều hoặc quá ít đều ảnh hưởng tới bào thai.

Hàng ngày, ngoài các công việc trên, em còn tham gia vào vệ sinh chuồng trại, sát trùng chuồng nuôi với các công việc cụ thể như sau: rắc vôi ở đường đi và hai bên hành lang để tiêu diệt mầm bệnh, vi khuẩn. Vệ sinh máng ăn: khi lau

máng ăn của lợn mẹ phải chú ý vét hết cám thừa, lau thật sạch để tránh cám thừa còn trên máng bị thiu, mốc, con mẹ ăn phải sẽ ảnh hưởng sức khỏe, nếu lợn bầu ăn phải thức ăn mốc, ôi thiu dễ bị sảy thai. Cần quét hành lang hàng ngày để giữ chuồng trại sạch sẽ hơn, xả nước vào gầm để tránh mùi hôi bốc lên và mầm bệnh xâm nhập.

4.2.2. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con

Trong thời gian thực tập tại trại, em vừa tham gia chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ lợn đẻ, mài nanh, bấm tai, thiến lợn đực.

* Đỡ đẻ lợn con: Kỹ thuật đỡ đẻ cho lợn con được em thực hiện như sau:

- Sau khi lợn mẹ đẻ, lấy lợn con từ trong chuồng ra.

- Vuốt hết dịch vùng đầu và mặt; vỗ nhẹ vào thân để kích thích hô hấp.

- Vuốt hết màng bọc và nhớt ở phần thân và chân lợn; dùng khăn lau khô người lợn, lợn con phải khô và sạch trước khi cắt dây rốn.

- Cầm lợn con và dây buộc rốn, thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn 2,5 cm, dùng kéo cắt phần bên ngoài nút thắt một đoạn bằng 1/2 bên trong nút buộc khoảng 1,5 cm, sát trùng dây rốn, vùng cuống rốn bằng cồn iod.

- Cho lợn con vào lồng úm tº = 33 - 35ºC

- Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ, lót thảm cho lợn con ra bú.

- Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết, lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú.

* Thao tác bấm tai, mài nanh, cắt đuôi và tiêm chế phẩm PENDISTREP

L.A. cho lợn con: Lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành mài nanh, bấm tai, cắt đuôi, tiêm chế phẩm PENDISTREP L.A. với liều lượng 0,2 ml/con. Số tai của lợn con sẽ được bấm theo mã số của trại.

* Thiến lợn đực: Đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt. Thông thường trong chăn nuôi lợn nái sinh sản người ta thường thiến lợn vào 7 - 10 ngày tuổi. Nhưng thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 3 sau khi sinh.

Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: dao thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi - lanh tiêm và thuốc kháng sinh Vetrimoxin L.A. (hoặc PENDISTREP L.A.), chế phẩm IRON DEXTRAN 20% PLUS, thuốc cầu trùng pigcoc.

Thao tác: Đầu tiên là tiêm cho lợn con 0,2ml/con kháng sinh Vetrimoxin

L.A. (hoặc PENDISTREP L.A.), 1ml/con chế phẩm IRON DEXTRAN 20% PLUS và cho uống 1ml thuốc cầu trùng pigcoc, sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi sao cho đầu của lợn con hướng xuống dưới; một tay nặn sao cho dịch hoàn nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn; dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp thừng dịch hoàn vào giật dịch hoàn ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn, bôi cồn vào vị trí thiến.

Kết quả thực hiện một số thủ thuật trên đàn lợn trong thời gian em thực tập tại chuồng đẻ (từ 1/6 - 27/6) được thể hiện trong bảng 4.3.

Bảng 4.3. Kết quả thực hiện thủ thuật trên đàn lợn con

STT

Công việc thực hiện

Số con lợn con sinh ra (con)

Số lợn con trực tiếp thực hiện (con)

Tỷ lệ (%)

1

Đỡ đẻ

680

675

99,26

2

Mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi

680

677

99,55

3

Thiến lợn đực

395

395

100

Trong 680 lợn con sinh ra, em đã đỡ đẻ 675 con đạt tỷ lệ 99,26 %; tiến hành mài nanh, bấm số tai 677 con trong tổng số 680 con, đạt tỷ lệ 99,55 %;

thiến lợn đực 395 con trong tổng 395 con đực đạt tỷ lệ 100 % con. Tỷ lệ thực hiện thủ thuật trên cũng không được cao là do công việc em được phân công làm chủ yếu là chăm sóc nuôi dưỡng và điều trị cho lợn nái là chính và chỉ có 1 tháng từ 1/6-27/6 là được thực hiện đầy đủ các thao tác trong chuồng. Còn khi nào được sự phân công cho phép của kỹ sư tại trại thì em mới làm các công việc khác.

Lợn con sau khi đẻ ra nếu nằm trong bọc thì cần xé bọc ngay để tránh lợn con bị ngạt, nếu lợn bị ngạt thì dùng tay vỗ nhẹ vào lưng lợn để kích thích hô hấp hoặc nâng 2 chân trước và 2 chân sau con lợn lại, gập bụng để kích thích hô hấp. Lợn con sau khi đẻ, lau sạch mình thì xoa thêm bột mistral để lợn nhanh khô, giữ ấm và tăng cường sức đề kháng. Lợn con sau khi đẻ 30 phút thì cho bú mẹ, con nhỏ, yếu cho lên bú ở những vú đầu, những con to khỏe hơn cho bú ở những vú sau. Nếu lợn mẹ không cho lợn con bú, cắn con thì buộc chân lợn mẹ, cố định để cho lợn con bú sữa. Lợn con được 4 ngày tuổi thì tiến hành lắp máng tập ăn và cho lợn con tập ăn. Vì lợn con mới sinh nên sức đề kháng yếu với điều kiện môi trường nên cần chú ý thắp bóng sưởi để giữ ấm, tránh các bệnh về hô hấp và phòng ngừa tiêu chảy ở lợn con. Nếu lợn con bị lạnh hay bị tiêu chảy thì xoa thêm bột mistral lên mình lợn và rắc lên sàn chuồng để chống rét cho lợn. Em thấy sử dụng bột mistral cho lợn rất tốt, nhất là vào mùa đông lợn được giữ ấm tốt, người nhanh khô hơn sau khi đỡ đẻ so với những con không được xoa bột, lợn con có sức đề kháng tốt hơn với các bất lợi từ môi trường.

Khi thao tác trên lợn con em đã rút ra được một số kinh nghiệm như: đỡ đẻ phải thao tác nhanh để không làm lợn con đau đớn, kêu gây ảnh hưởng tới con nái đang đẻ, lợn con buộc dây rốn phải chắc vì một số trường hợp em buộc chưa chắc sau khi cắt dây rốn máu còn chảy thành tia, lợn con bị mất máu nhiều. Khi mài nanh, bấm số tai, thiến lợn đực phải tiến hành nhẹ nhàng vì lợn con

còn rất nhỏ và yếu, nên tiến hành mài nanh, bấm số tai ngay sau khi đẻ 1 ngày và thiến lợn đực sau đẻ 3 ngày vì nếu mài nanh, bấm số tai và thiến quá muộn thì lợn con dễ mất máu nhiều, vết thương khó lành hơn và lợn con quá to gây khó khăn cho việc cố định.

4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại lợn Thanh Vân

Trong suốt quá trình thực tập tại trại lợn Thanh Vân em đã theo dõi được tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại được thể hiện qua bảng 4.4.

Bảng 4.4. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại

Tháng

Số con đẻ

Đẻ bình thường

Tỷ lệ (%)

Số con đẻ khó phải can thiệp

Tỷ lệ (%)

6

60

60

100

0

0

7

60

58

96,66

2

3,33

8

60

60

100

0

0

9

59

55

93,22

4

6,77

10

58

56

96,55

2

3,44

11

60

59

98,33

1

1,66

Tổng

357

348

97,47

9

2,52

Số liệu bảng 4.4 cho biết tổng số lượng lợn đẻ mỗi tháng, số con đẻ bình thường và số con đẻ phải can thiệp của trại. Tỷ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp từ 0

- 7%, trung bình là 2,52 %. Lợn nái đẻ khó phải can thiệp là do lợn đẻ ở những lứa đầu, do lợn ăn nhiều vào giai đoạn cuối của thai kỳ làm thai quá to, do ngôi thai không thuận, do lợn mẹ ít được vận động và do sức khỏe của con mẹ không tốt. Số lợn nái đẻ phải can thiệp với tỷ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai. Tỷ lệ đẻ khó cao nhất 6,77% cho thấy việc thực hiện tương đối tốt quy trình kỹ thuật cho lợn nái sinh sản.

Trong quá trình đỡ đẻ, em rút được kinh nghiệm là cần chuẩn bị tốt lồng

Xem tất cả 49 trang.

Ngày đăng: 15/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí