Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào công nghiệp dịch vụ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 2


Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Từ những khái niệm trên đây, có thể hiểu một cách khái quát về FDI là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài và phản ánh lợi ích dài hạn về quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một nền kinh tế (được gọi là chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài) trong một doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài (được gọi là doanh nghiệp FDI). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài với hai đặc điểm cơ bản là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.

1.1.2. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài


Dựa vào những tiêu chí khác nhau, có rất nhiều cách để phân loại FDI như: phân loại theo hình thức đầu tư, phân loại theo động cơ đầu tư, phân loại theo cách thức xâm nhập…Tuy nhiên, gắn liền với FDI Công nghiệp Dịch vụ thì người ta thường quan tâm tới cách phân loại theo cách thức xâm nhập. Có hai loại hình chính đó là2:

- Đầu tư mới (Greenfield Investment)


Nguồn FDI được sử dụng để xây dựng các doanh nghiệp mới hoặc phát triển thêm các doanh nghiệp sẵn có trong nước. Đây là phương thức các quốc gia nhận FDI thích nhất vì tạo được thêm công ăn việc làm cho người dân trong nước, nâng cao sản lượng, chuyển giao kỹ thuật cao cấp đồng thời tạo được mối liên hệ trao đổi với thị trường thế giới.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.


2 Ngoài ra còn có loại hình Brownfield Investment: Mua lại một doanh nghiệp nhưng không sử dụng đến các tài sản của doanh nghiệp đó. Bản chất chỉ là mua lại cái tên.

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào công nghiệp dịch vụ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 2


Nhưng mặt yếu của đầu tư mới là có thể đe dọa sự tồn tại của ngành trong nước vì nhờ khả năng cạnh tranh cao hơn về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế, đồng thời làm khô cạn tài nguyên trong nước. Ngoài ra một phần lợi nhuận quan trọng sẽ chảy ngược về công ty chủ đầu tư.

- Mua lại và sáp nhập (Mergers and Acquisitions)


Đây là hình thức mà tài sản của một doanh nghiệp trong nước được chuyển giao cho một doanh nghiệp nước ngoài. Hình thức chuyển giao có thể là một sự sáp nhập (merge) giữa một công ty trong nước với một công ty nước ngoài để tạo thành một doanh nghiệp với một tư cách pháp nhân mới. Doanh nghiệp mới này bắt đầu có tính đa quốc gia. Trường hợp sáp nhập với công ty nước ngoài, phần FDI được tính là phần tài trợ mà công ty trong nước được nhận từ bộ phận công ty nước ngoài rót vào. Một hình thức chuyển giao khác có thể là bán đứt công ty trong nước cho công ty nước ngoài. Trường hợp này, FDI được tính là những khoản đầu tư từ công ty mẹ qua cho công ty con trong nước. Đây là loại hình chủ yếu được các nhà đầu tư Công nghiệp dịch vụ ưa thích bởi ưu điểm thâm nhập thị trường nhanh và khả năng thành công cao.

Ngoài ra, Luật đầu tư 2005 của Việt Nam cũng đưa ra các hình thức FDI được phép thực hiện tại Việt Nam như sau:

- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.

- Thành lập tổ chức liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, BOT, BTO, BT.

- Đầu tư phát triển kinh doanh.

- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.

- Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.

- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.


Theo đó, FDI đã được phân loại bằng cách liệt kê các hoạt động được coi là đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà không có một tiêu chí cụ thể nào để phân loại. Cách phân loại này so với cách phân loại quốc tế ở trên tỏ ra không khoa học mà chỉ có tính chất hướng các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn cách thức tiến hành đầu tư vào Việt Nam.‌

1.2. Ngành Công nghiệp Dịch vụ


1.2.1. Khái niệm và đặc điểm ngành Công nghiệp Dịch vụ


Nếu như ngày xưa, người ta nhắc đên Nông-Lâm-Ngư nghiệp và Công nghiệp như hai trụ cột chính của một nền kinh tế thì từ vài thập kỷ trở lại đây, khái niệm “Công nghiệp Dịch vụ” ngày càng được nhắc đến nhiều hơn. “Công nghiệp Dịch vụ” trong tiếng Anh là “Service Industry” được liên hiệp công nghiệp dịch vụ Hoa Kỳ CSI (Coalition of Service Industry) sử dụng để chỉ chung một nhóm các ngành cung cấp cho người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng là các “dịch vụ”3. Trong đó, cụm từ “dịch vụ” (service) chỉ một lĩnh vực rất rộng, bao gồm một loạt các hoạt động và sản phẩm vô hình.

Trong một khái niệm để phân biệt với hàng hóa hữu hình, dịch vụ được hiểu là những hoạt động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn ngay lập tức các nhu cầu của sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Lao động xã hội là lao động có mục đích, có phương pháp và bằng một công cụ nào đó của con người. Còn hình thái vật thể là cái hữu hình, cái mà con người có thể nhìn thấy bằng mắt, có thể sờ được bằng tay như một cái bàn gỗ, một cái ti vi…Dịch vụ không không là những thứ đó, và Công nghiệp Dịch vụ cũng không làm ra những thứ đó. Nhưng để làm ra được cái bàn gỗ, cái ti vi thì cần tới dịch vụ. Đó là dịch vụ vận tải để vận chuyển gỗ


3 http://www.uscsi.org/


nguyên liệu từ rừng về xưởng sản xuất bàn, dịch vụ lắp ráp để lắp được một cái ti vi. Mặt khác nhờ dịch vụ mà giá trị của các sản phẩm trên cũng được nâng lên. Đó là dịch vụ bảo hành, làm cho một chiếc ti vi có bảo hành sẽ có giá cao hơn một chiếc ti vi không có bảo hành. Như vậy có thể hiểu về “dịch vụ” một cách rõ ràng hơn khi đặt trong mối tương quan với “hàng hóa hữu hình” hay gọi tắt là “hàng hóa”.

Dịch vụ đồng thời cũng là một quá trình hoạt động, quá trình đó diễn ra theo trình tự gồm nhiều khâu, nhiều bước khác nhau. Mỗi khâu, mỗi bước có thể là những dịch vụ nhánh, độc lập với dịch vụ chính. Ví dụ: đối với dịch vụ du lịch thì hoạt động tổ chức tour và vận chuyển hành khách tới địa điểm du lịch là hoạt động chính. Ngoài ra, đi kèm với nó, các dịch vụ như bảo hiểm du lịch, phiên dịch, chụp ảnh…cũng được cung cấp tùy theo nhu cầu khách hàng và khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Sự tổng hợp tất cả các hoạt động đó nhằm nâng cao mức độ thỏa mãn của người tiêu dùng cũng như nâng cao chất lượng phục vụ của nhà cung cấp. Chính bởi lẽ đó, rất khó để vạch ra một ranh giới cố định cho mỗi loại hình dịch vụ.

Mặc dù các tổ chức kinh tế quốc tế đều nỗ lực hướng đến một khái niệm thông nhất cho nhóm ngành kinh tế này nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện được. Việc phân loại các ngành kinh tế một cách thống nhất sẽ luôn là một việc rất khó bởi nó còn tùy thuộc vào cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia để xét xem một hoạt động nào đó có đủ lớn để trở thành một ngành kinh tế. Ví dụ như ở Nhật Bản, theo Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp thì các ngành kinh tế của nước này được chia thành 5 nhóm ngành lớn là : Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Ngư nghiệp; Công nghiệp chế tạo, chế biến; Xây dựng, Dịch vụ; Dịch vụ chính phủ. Như vậy, bản thân hoạt động dịch vụ tồn tại trong 2 nhóm ngành lớn là Dịch vụ và Dịch vụ Chính phủ. Ngoài ra, cũng có những cách gọi khác nhau để hướng đến cùng một khái niệm. Từ “lĩnh vực


dịch vụ”, “khu vực dịch vụ” (Service Sector) cũng được tổ chức Thương mại Thế giới WTO đề cập đến với bản chất giống như “Công nghiệp dịch vụ” (Service Industry) được hiểu ở trên.

“Công nghiệp dịch vụ” có thể được hiểu hay tiếp cận theo nhiều cách, dưới nhiều góc độ nhưng hầu hết các tổ chức quốc tế đều thừa nhận những đặc điểm sau của nhóm ngành kinh tế này.

1.2.1.1. Tính phi vật chất


Có thể nói các sản phẩm của ngành Công nghiệp Dịch vụ là phi vật chất. Ai đó có thể phản đối khi đưa ra ví dụ về sản phẩm của dịch vụ cung cấp phầm mềm máy tính khi phần mềm đó được bán bằng một chiếc đĩa CD. Chiếc đĩa CD ở đây đúng là vật chất hữu hình. Nhưng chiếc đĩa CD đó chỉ là phương tiện để doanh nghiệp chuyển sản phẩm dịch vụ của mình tới tay người sử dụng. Sản phẩm của hoạt động này chính là việc phần mềm đó được cài đặt và chạy được trong máy tính của người sử dụng. Rõ ràng ta không thể nào sờ vào, cầm nắm được kết quả ấy. Thực tế này chỉ ra rằng, không phải lúc nào dịch vụ cũng được cung cấp một cách đơn lẻ, mà nó thường đi kèm với một sản phẩm vật chất cụ thể nào đó. Ví dụ như dịch vụ điện hoa thì phải gắn liền với “hoa” – một sản phẩm vật chất hữu hình, có kích thước, hình dáng, màu sắc, khối lượng chính xác.

Tính phi vật chất này còn thể hiện ở việc người ta không thể mua quyền sở hữu dịch vụ mà chỉ có thể mua được quyền sử dụng dịch vụ.

1.2.1.2. Tính khó xác định chất lượng


Nếu các sản phẩm vật chất có cơ, lý, hóa tính…có các tiêu chuẩn kỹ thuật như công suất, mức tiêu hao nhiêu liệu…có thể xác định được và có thể sản xuất theo các tiêu chuẩn của cơ sở, của ngành, của nhà nước và quốc tế thì dịch vụ không thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu được lượng hóa một


cách rõ ràng như thế. Người ta có thể phán đoán chất lượng dịch vụ thông qua một số dấu hiệu như danh tiếng của nhà cung cấp, ý kiến đánh giá của những người tiêu dùng khác…nhưng chỉ đến khi trực tiếp sử dụng dịch vụ thì mới đánh giá được chất lượng cũng như giá trị của nó đối với bản thân mình. Mức độ thỏa mãn của người tiêu dùng là một tiêu chí chiếm tỷ trọng lớn trong các tiêu chí nhằm xác định chất lượng của dịch vụ. Nó phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tiếp xúc và tương tác qua lại giữa nhà cung cấp và người sử dụng dịch vụ. Ví dụ dịch vụ cung cấp đường truyền internet. Với những tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của hai nhà cung cấp A và B, chi phí lắp đặt như nhau, nhưng khi có khách hàng gọi điện đến yêu cầu cung cấp dịch vụ, thái độ trả lời điện thoại của nhân viên bên A không lịch sự và nhiệt tình bằng nhân viên bên B thì chất lượng dịch vụ của bên A không thể bằng so với bên B. Trong trường hợp này việc đánh giá chất lượng dịch vụ càng khó bởi sự thiếu lịch sự và không nhiệt tình của nhân viên chỉ là cảm nhận chủ quan của khách hàng, có thể là không chính xác nếu như có sự hiểu lầm.

Chính bởi đặc tính này mà ngành Công nghiệp Dịch vụ được coi là ngành kinh tế của xã hội hiện đại, nơi các nhu cầu về tinh thần, nhu cầu về sự thỏa mãn được coi trọng. Các nhà cung cấp dịch vụ ngày càng chú trọng đến chất lượng phục vụ khách hàng, coi đó là điểm mấu chốt để cạnh tranh thay vì quan điểm cạnh tranh bằng giá đã tồn tại từ xa xưa.

1.2.1.3. Tính không thể tách rời và không lưu trữ được


Các sản phẩm vật chất sau khi được sản xuất ra có thể được lưu kho hoặc vận chuyển đến các nơi để thỏa mãn nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Tuy vậy, đối với hầu hết sản phẩm của các ngành Công nghiệp Dịch vụ, người ta không thể lưu trữ chúng, quá trình cung cấp sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm phải được thực hiện đồng thời. Nhà cung cấp không thể cất trữ dịch vụ trong kho rồi tung ra thị trường khi nhu cầu tăng để thu lợi. Ngành công


nghiệp giải trí cung cấp dịch vụ chiếu phim là một ví dụ. Ta không thể tách rời hoạt động chiếu phim với hoạt động xem phim. Việc trì hoãn việc công chiếu một bộ phim lại mà chỉ quảng cáo thôi, nhằm thu hút sự chú ý của khán giả không được coi là hoạt động lưu trữ. Dịch vụ đang xét đến ở đây là “chiếu phim” nên đó là việc hoãn cung cấp dịch vụ, dịch vụ chưa hề được thực hiện chứ không phải là đã được tạo ra rồi cất trữ.

Chính đặc tính này đã đặt ra nhu cầu phát triển tất cả các ngành Công nghiệp Dịch vụ đối với tất cả các nước trên thế giới. Người ta không thể dựa sự chuyên môn hóa sản xuất toàn cầu, rồi tiến hành xuất – nhập khẩu các sản phẩm của Công nghiệp Dịch vụ như vẫn làm đối với các sản phẩm hàng hóa khác. Mặc dù vẫn có thể tiến hành thương mại dịch vụ quốc tế nhưng xét cho cùng, để người dân một nước có cơ hội tiêu dùng một dịch vụ nào đó thì dịch vụ ấy phải được thực hiện tại chỗ, ngay tại nơi có nhu cầu.

1.2.2. Phân loại Công nghiệp Dịch vụ


Hiện nay, việc phân loại các ngành kinh tế chưa có được sự thống nhất không chỉ ở phạm vi thế giới mà thậm chí trong một quốc gia bởi lẽ có quá nhiều tiêu chí phân loại cũng như mức độ phân loại. ở hầu hết các nước, người ta sử dụng cách liệt kê để phân loại các ngành kinh tế nhằm mục đích điều hành và quản lý hoạt động của doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế.

1.2.2.1. Theo tổ chức Thương mại Thế giới WTO


WTO liệt kê các ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ và xếp chúng thành 12 nhóm với 11 nhóm ngành chính và 1 nhóm ngành bao gồm các ngành còn lại. Cụ thể như sau:

Nhóm 1: Các dịch vụ kinh doanh

Các dịch vụ chuyên ngành


Các dịch vụ liên quan đến máy tính

Các dịch vụ nghiên cứu và phát triển (R & D) Các dịch vụ bất động sản

Các dịch vụ cho thuê không qua môi giới Các dịch vụ kinh doanh khác

Nhóm 2: Các dịch vụ truyền thông

Các dịch vụ bưu điện Các dịch vụ đưa thư Các dịch vụ viễn thông Các dịch vụ nghe nhìn

Các dịch vụ truyền thông khác

Nhóm 3: Các dịch vụ xây dựng và kỹ sư công trình

Tổng công trình xây dựng nhà cao ốc

Tổng công trình xây dựng cho các công trình dân sự Công việc lắp đặt và lắp ráp

Công việc hoàn thiện và kết thúc xây dựng Các dịch vụ xây dựng và kỹ sư công trình khác Nhóm 4: Các dịch vụ phân phối

Các dịch vụ của đại lý ăn hoa hồng Các dịch vụ thương mại bán buôn Dịch vụ bán lẻ

Dịch vụ cung cấp quyền kinh doanh Các dịch vụ phân phối khác

Nhóm 5: Các dịch vụ giáo dục

Dịch vụ giáo dục tiểu học Dịch vụ giáo dục trung học Dịch vụ giáo dục đại học Dịch vụ giáo dục người lớn

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 12/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí