Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapore và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 2


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI‌‌

I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1. Tổng quan về đầu tư nước ngoài

Đầu tư quốc tế là một hình thức di chuyển quốc tế về vốn, trong đó vốn được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Dòng vốn được hình thành từ quá trình di chuyển đó được gọi là vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Vai trò của dòng vốn quốc tế giống như dòng máu chảy trong cơ thể nền kinh tế thế giới, nơi nào luồng vốn chạy tới thường xuyên và tăng cường thì nơi đó nền kinh tế “tăng tốc” và “cất cánh” vì có vốn là có công nghệ mới, có bí quyết quản lý, có kỹ thuật, đầu tư, việc làm và thị trường…

Việc thu hút đầu tư nước ngoài là đặc biệt quan trọng đối với nhiều nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau trong chiến lược thu hút vốn đầu tư của mình và kết quả thu được cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, một số nước Mỹ La Tinh và Hàn Quốc tập trung vào việc thu hút vốn vay thương mại, hay nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), trong khi một số nước khác ở Đông Á như Thái Lan, Trung Quốc, Singapore lại chú trọng vào việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Mỗi chiến lược thu hút vốn có những lợi thế và bất cập riêng của mình.

Nghiên cứu sự vận động của dòng vốn quốc tế giữa các quốc gia trong nhiều thập kỷ qua cho thấy sự hình thành các dòng chuyển dịch vốn dường như là một tất yếu kinh tế, và mục tiêu chủ yếu lâu dài của hoạt động đầu tư ra nước ngoài dù là kiếm lợi hay hỗ trợ phát triển, đều nhằm mục tiêu lợi ích.

Trong thế kỷ XX, dòng vốn quốc tế chuyển dịch theo các xu hướng chính sau:


- Nửa đầu thế kỷ XX, dòng đầu tư tư bản từ các nước phát triển di chuyển sang các nước đang và chậm phát triển.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

- Sau chiến tranh thế giới thứ II, điểm thu hút đầu tư nước ngoài lại chính là các nước kinh tế phát triển (Tây Âu, Nhật Bản…)

- Trong hai thập kỷ 70, 80, đầu tư vào các nước tư bản phát triển và đầu tư lẫn nhau giữa các nước tư bản phát triển trở thành một xu thế chủ yếu của dòng vốn quốc tế.

- Từ nửa đầu thập kỷ 90 đến nay, dòng vốn quốc tế có sự di chuyển ngày một tăng từ các nước công nghiệp sang các nước đang phát triển.

- Trong dòng vốn lưu chuyển quốc tế, dòng vốn tư nhân giữ một vị trí quan trọng, các cơ hội đầu tư có lợi nhuận và độ an toàn cao được xem như là điều kiện cần và đủ để hội tụ dòng vốn đổ vào. Có thể nói, dòng vốn quốc tế vào các nước đang phát triển sẽ có xu hướng tiếp tục tăng trong thập kỷ tới.

Biểu đồ dưới đây cho thấy dòng vốn FDI phân bổ vào các khu vực trên thế giới từ những năm 1980 đến nay:

Biểu đồ 1. Dòng FDI toàn cầu và theo nhóm các nền kinh tế từ 1980- 2006


Nguồn World Investment Report 2007 Hình thức biểu hiện của vốn ĐTNN có thể là 1

Nguồn: World Investment Report 2007

Hình thức biểu hiện của vốn ĐTNN có thể là vốn dưới hình thức tiền tệ (ngoại tệ, nội tệ), hoặc phi tiền tệ, hữu hình (hàng hóa, tư liệu sản xuất, nhà


xưởng, máy móc…) hoặc vô hình (công nghệ, bí quyết, bằng phát minh, sáng chế, uy tín, nhãn hiệu hàng hóa…).

Chủ thể tham gia trao đổi quốc tế về vốn là các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các cá nhân.

Tùy theo các tiêu chí, các cách tiếp cận cũng như mục tiêu nghiên cứu, ĐTNN được phân thành: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, đầu tư nước ngoài hỗ trợ phát triển, đầu tư chứng khoán nước ngoài… Có thể cụ thể hóa một số cách phân loại ĐTNN thường gặp sau đây:

Phân loại theo phương thức quản lý vốn, ĐTNN được phân thành đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài.

- Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Indirect Investment- FII) là loại hình đầu tư mà chủ đầu tư không trực tiếp quản lý việc sử dụng vốn, họ hưởng lợi ích theo một tỷ lệ cho trước của số vốn đầu tư thông qua các nhân hoặc tổ chức nhận đầu tư. Các hình thức của FII gồm: Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Asistance - ODA); tín dụng thương mại quốc tế; đầu tư chứng khoán nước ngoài (Foreign Portfolio Investment - FPI).

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà nước, các công ty xuyên quốc gia (TNCs), hoặc các cá nhân nước ngoài tự đầu tư và trực tiếp tham gia điều hành, sử dụng vốn đầu tư của mình ở nước nhận đầu tư theo các dự án đầu tư đã cam kết.

Phân loại theo mục đích của hoạt động chuyển vốn ra nước ngoài:

Mục tiêu chính trong trao đổi vốn giữa các nước là tìm đến lợi ích kinh tế đối với cả hai bên, sau đó là củng cố vị trí và uy tín trên thị trường thế giới. Nếu nghiên cứu theo mục đích chuyển vốn ra nước ngoài, ĐTNN chia ra:

- ĐTNN vì lợi ích kinh tế: Nguồn vốn nước ngoài đầu tư vì mục đích này sẽ sử dụng các phương thức FDI, cho vay thương mại, huy động vốn từ thị trường vốn quốc tế qua bán trái phiếu, cổ phiếu…

- ĐTNN nhằm hỗ trợ phát triển (thường ẩn sau là mục đích chính trị):


Đây là dòng vốn đưa vào một quốc gia với các ưu đãi cao nhằm hỗ trợ phát triển cho quốc gia đó. Mặc dù có ưu đãi cao song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện và ràng buộc. Nguồn vốn đầu tư vì mục đích này sử dụng phương thức ODA. Đối với nước nhận đầu tư, để có thể tiếp nhận nguồn vốn này với thiệt thòi ít nhất thì cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể nếu không sẽ rất dễ rơi vào tình trạng nợ nần.

2. Khái niệm và phân loại FDI

2.1. Khái niệm FDI

Trên thế giới có nhiều cách diễn giải khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign dierect investment- FDI), mỗi ý kiến lại tiếp cận FDI từ một góc độ nhất định.

Luật đầu tư Việt Nam định nghĩa: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư…”1

Định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF đưa ra năm 1977, được chấp nhận khá rộng rãi: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó.”2

Định nghĩa này đề cao động cơ của nhà đầu tư và phân biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp. (Đầu tư gián tiếp có đặc trưng cơ bản là thu lợi nhuận từ việc mua bán tài sản, tài chính, vay mượn, …, nhưng nhà đầu tư không tham gia vào quá trình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp).

Bên cạnh đó cũng có một số định nghĩa của các nhà kinh tế học có cách tiếp cận tương tự.


1 Luật đầu tư Việt Nam (2005), Nxb Tư pháp,tr.10.

2 Foreign dierect investment in 90’s (1990), Martinus Nijhoff. tr.150.


Synthia Day Wallace đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nghĩa rộng là việc thiết lập hay giành được quyền sở hữu đáng kể trong một công ty ở nước ngoài hay một sự gia tăng khối lượng của một khoản đầu tư ra nước ngoài nhằm đạt được quyền sở hữu đáng kể”.3

Đối với một nước đang phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài là một cơ hội để tạo thêm công ăn việc làm, gia tăng thêm thu nhập cho ngân sách, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, khai thác nhiều nguồn lực đang ở dạng tiềm năng như giá trị bất động sản, tìm kiếm thị trường nước ngoài…

Đối với công ty, đó lại là cơ hội để tạo ra được các giá trị mới, tiến hành những công việc mang lợi ích trước mắt và lâu dài, có thể tiến hành thăm dò, chuẩn bị sức mạnh để khai thác tiềm năng mới.

Như vậy, có thể nói rằng: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc một đối tác nước ngoài đưa vốn vào một nước và trực tiếp tham gia điều hành để trực tiếp đạt được một mục đích nào đó hoặc để thực hiện một chính sách nào đó về kinh tế, chính trị, tùy theo mục đích, địa vị và những tính toán của mình.

2.2. Phân loại FDI

2.2.1. Theo phương thức đầu tư

Đầu tư mới: (Greenfield Investment)

Là việc nhà đầu tư nước ngoài dùng vốn để đầu tư từ đầu về cơ sở vật chất, nhà xưởng máy móc… nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.

Mua lại và sáp nhập: (Mergers and Acquisistions- M&A)

Sáp nhập (Merger): Là hoạt động trong đó tài sản và hoạt động của hai công ty được kết hợp lại để thành lập nên một thực thể mới.

Mua lại (Acquisistion): Là giao dịch trong đó quyền sở hữu, kiểm soát tài sản và hoạt động của công ty được chuyển từ công ty bị mua sang công ty đi mua và công ty bị mua trở thành chi nhánh của công ty đi mua.


3 Đầu tư trực tiếp của các công ty đa quốc gia ở các nước đang phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1996. tr.32.


Nhìn chung, hoạt động mua lại và sáp nhập tạo cho các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng các hoạt động của mình ra thị trường nước ngoài. Thông qua con đường M&A, các công ty có thể giảm chi phí trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, sản xuất, phân phối và lưu thông. M&A tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và cơ cấu ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó hình thức này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp ở các quốc gia.

2.2.2. Theo hình thức đầu tư

Các hình thức thu hút FDI của một quốc gia do luật pháp từng nước quy định, cụ thể theo Luật thương mại Việt Nam có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài sau:

Hình thức doanh nghiệp liên doanh:

Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài (gọi tắt là liên doanh) là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ nước ngoài.

Xét trên phương diện kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh có những đặc trưng chủ yếu là các bên liên doanh cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro.

Về mặt pháp lý, doanh nghiệp liên doanh là một thực thể pháp lý độc lập hoạt động theo pháp luật của nước sở tại. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân. Mỗi bên tham gia liên doanh vừa có tư cách pháp lý riêng - chịu trách nhiệm pháp lý với bên kia và tư cách pháp lý chung - chịu trách nhiệm với toàn thể liên doanh.

Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài:


Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh.

Sự ra đời của hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đánh dấu bước phát triển cao của các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các thực thể kinh doanh được thành lập không chỉ dựa trên sự khác biệt về các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, luật pháp… mà còn dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về môi trường và khả năng kinh doanh khi thành lập.

Do có những lợi thế nhất định, việc sử dụng hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trở thành một giải pháp có triển vọng trong đầu tư quốc tế và hình thức này đang không ngừng được mở rộng, phát triển.

Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh:

Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh và hoàn toàn khác với hợp đồng thương mại, hợp đồng giao nguyên liệu lấy sản phẩm và những hợp đồng khác ở chỗ nó qui định rõ việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.

Ngoài 3 hình thức phổ biến trên, còn có một số hình thức khác như doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh của các công ty nước ngoài, hoặc công ty con ở nước khác… Bên cạnh đó còn các phương thức tổ chức đầu tư khác như khu chế xuất, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), và các dạng tương tự như hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT). Việc phân loại các hình thức này chủ yếu căn cứ theo hình thức pháp lý của chúng.


II. VAI TRÒ CỦA THU HÚT VỐN FDI

Trên phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn, khó có một lợi ích nào không đòi hỏi chi phí. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại lợi ích và cả rủi ro cho cả nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu này, người viết xin tập trung đến vai trò của FDI với nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển để thấy được tầm quan trọng của dòng vốn này.

Có thể nói, nguồn vốn FDI mang lại cho nước tiếp nhận, đặc biệt là những nước đang phát triển nhiều lợi ích:

Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn cho sự phát triển, củng cố sức mạnh đồng bản tệ và thúc đẩy sự phát triển thị trường tài chính trong nước.

Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, các nước đang phát triển đều bị thiếu vốn đầu tư do tích lũy nội bộ thấp hoặc không có tích lũy nên rất cần nguồn vốn từ bên ngoài bổ sung cho vốn đầu tư phát triển. FDI không quy định mức vốn đầu tư tối đa mà chỉ quy định mức tối thiểu, do vậy cho phép các nước sở tại khai thác được nguồn vốn bên ngoài, làm tăng thêm nguồn lực để phát triển kinh tế. Nguồn vốn FDI lại thường là nguồn vốn đầu tư dài hạn, và các nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình, nên có hiệu quả đối với tăng trưởng kinh tế bền vững. Bên cạnh đó, việc triển khai các dự án FDI sẽ góp phần tạo động lực cho sự tăng trưởng của sản xuất dịch vụ trong nước… từ đó tạo cơ sở vật chất để củng cố sức mạnh đồng bản tệ.

Cùng với việc bổ sung thêm nguồn vốn, FDI còn có tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường tài chính của nước nhận đầu tư, thể hiện qua nhu cầu tăng cường huy động và tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư từ nguồn vốn nội địa, cũng như thúc đẩy và trợ giúp sự hình thành các thể chế tài chính như: hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán.

Thứ hai, FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài.

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 11/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí