Giám Sát Gián Tiếp Thông Qua Các Động Cơ Khuyến Khích:

khoản bảo hành thời hạn dài nhằm chứng tỏ chất lượng cao của sản phẩm. Trong thị trường tín dụng, những người đi vay vốn thường phải tích lũy thành tích tín dụng tốt, chứng minh tính khả thi của dự án và tiềm năng trả nợ của mình, để ngân hàng có thể đánh giá được rủi ro tín dụng và quyết định cho vay. Spence lấy ví dụ bằng thị trường lao động. Người bán trên thị trường lao động là những ứng cử viên đi xin việc và người mua là nhà tuyển dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp quan sát các khả năng của ứng cử viên mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu những người kém năng lực phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn những người có năng lực để đạt được cùng trình độ học vấn thì những người có năng lực có thể phát tín hiệu bằng cách đạt được những bằng cấp mà người kém năng lực không thể đạt được. Hay một ví dụ khác, việc triển khai các chương trình

quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản phẩm, việc chia cổ tức cho cổ đông... đó đều là những cách phát tín hiệu trên thương trường.6

4.3. Giám sát trực tiếp

Giám sát trực tiếp là cơ chế trong đó một bên trong giao dịch bỏ ra nguồn lực để đạt được việc kiểm soát thông tin đối với bên kia. Việc giám sát này có thể bao gồm gia tăng nguồn lực dành cho việc kiểm soát và kiểm chứng. Trong thị trường tài chính, giải pháp này gắn với các yêu cầu về kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty do các công ty kiểm toán độc lập tiến hành trước khi được phép công bố. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng của nhiều quốc gia, báo cáo tài chính được kiểm toán trở thành một điều kiện quan trọng để ngân hàng đánh giá rủi ro tín dụng, thẩm định dự án và quyết định cho vay. Người chủ công ty cử một nhân viên giám sát nhằm kiểm tra, theo dõi hành vi của các nhân viên của mình, và đưa ra các quyết

6 Th.S.Nguyễn Thúy Anh, khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Ngoại Thương, Thông tin bất cân xứng - Rủi ro tiềm ẩn, Tạp chí Tia sáng, số ra ngày 19/03/2007.

định tăng lương, thưởng dựa trên kết quả đánh giá của giám sát viên này. Những người gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng cần có những yêu cầu cụ thể đối với hoạt động đầu tư của ngân hàng, và yêu cầu công bố thông tin liên quan nhằm giám sát hoạt động sử dụng vốn huy động của ngân hàng, đảm bảo an toàn vốn. Các tổ chức đầu tư mạo hiểm khi quyết định đầu tư vào các dự án kinh doanh mới thường trực tiếp cử một người của quỹ tham gia vào quá trình tạo lập công ty nhằm hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng, đảm bảo hiệu quả sử dụng đồng vốn của họ.

4.4. Giám sát gián tiếp thông qua các động cơ khuyến khích:

Giám sát gián tiếp thông qua các động cơ khuyến khích là việc một bên trong giao dịch thiết kế hợp đồng sao cho bên kia cảm thấy không có động cơ để thực hiện những hành vi đi ngược lại lợi ích của anh ta, và khiến bên kia cảm thấy rằng việc tuân thủ các điều khoản sẽ có lợi cho mình. Trong hợp đồng có thể thiết kế các điều khoản hạn chế để ngăn cản bên kia tham gia vào các hoạt động có độ rủi ro cao, hạn chế vấn đề rủi ro đạo đức. Quay trở lại ví dụ bạn cho người chú C vay 1000$ để đầu tư vào cửa hàng đánh máy thuê cho sinh viên viết khóa luận. Nếu bạn biết rõ rằng người chú của mình sử dụng nguồn tiền vay đúng mục đích thì bạn sẽ yên tâm cho vay, bởi khả năng thu hồi vốn là chắc chắn. Tuy nhiên, vì có khả năng cao là chú C sẽ dùng khoản tiền đó để đi cá cược ở trường đua ngựa, nên bạn phải ngăn chặn tình trạng này bằng cách quy định rõ trong hợp đồng rằng khoản tiền đó chỉ được sử dụng để mua máy soạn thảo văn bản. Trong các hợp đồng vay nợ nói chung, để kiểm soát tình trạng rủi ro đạo đức, bên cho vay cần đưa vào những điều khoản hạn chế để loại trừ những hành vi không mong muốn, đồng thời khuyến khích những hành vi tích cực. Có bốn loại điều khoản hạn chế thường gặp: Điều khoản ngăn cản hành vi không mong muốn,

Điều khoản khuyến khích hành vi mong muốn, Điều khoản đảm bảo giá trị vật thế chấp, Điều khoản cung cấp thông tin. Những điều khoản này sẽ được nói kỹ hơn trong chương III.

CHƯƠNG II‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM


Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 5

I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Thị trường tài chính, bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán (thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu) và thị trường tín dụng ngân hàng, giữ một vai trò đặc biệt trong việc phân bổ hữu hiệu các nguồn vốn trong nền kinh tế. Có được thị trường tài chính phát triển lành mạnh là một nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế .

Với công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, thị trường tài chính cũng đã được hình thành và cải cách theo các nguyên tắc thị trường, góp phần phân bổ các nguồn lực tài chính một cách hiệu quả hơn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đồng nghĩa với việc mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với nền kinh tế đất nước nói chung và thị trường tài chính nói riêng.

Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Trước hết, các thị trường cấu thành cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành và từng bước hoàn thiện. Nhiều loại hình định chế trung gian tài chính được thành

lập. Đặc biệt, thị trường chứng khoán đã được thiết lập và có những đóng góp ban đầu trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.

Thứ hai, trong hơn 5 năm lại đây, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại nhằm giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch trong chính sách tín dụng. Chương trình cơ cấu lại tập trung vào việc lành mạnh hoá và tăng cường năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước. Hoạt động tín dụng đã được đổi mới theo hướng các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay, lựa chọn khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên nguyên tắc thương mại, đảm bảo an toàn và hiệu quả.

Thứ ba, các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán, giám sát... đã và đang từng bước được thể chế hoá và ứng dụng rộng rãi hơn trong thực tế. Các thể chế về quản trị doanh nghiệp (kể cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước, nhất là đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Cuối cùng, song không kém phần quan trọng, khung pháp luật của thị trường tài chính đang ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chính sách tín dụng ngày càng đối xử bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Các định chế tài chính nước ngoài ngày càng được phép mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình.

Tuy đạt được không ít thành tựu, song thị trường tài chính Việt Nam vẫn được xem là còn kém phát triển. Độ sâu tài chính đo bằng tỷ lệ của tổng phương tiện thanh toán (M2)/GDP và tổng tín dụng trong nước/GDP đã tăng đáng kể, đều từ dưới 20% năm 1990 tương ứng lên 50,5% và 35,1% năm 2000 và 79,0% và 70,2% năm 2005. Song những chỉ số này chỉ tương đương

với chỉ số của các nước trong khu vực vào những năm cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 19907.

Thị trường chứng khoán, tuy có những bước phát triển nhanh trong năm 2006, song vẫn còn nhỏ bé. Tổng vốn hoá thị trường của 54 công ty niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tại thời điểm 16/11/2006 đạt 58.562 tỷ đồng, tương đương 3,64 tỷ USD hay gần 7% GDP năm 2005; nếu tính cả chứng chỉ quỹ, tổng vốn hoá thị trường đạt 60.522,7 tỷ đồng, tương đương 3,77 tỷ USD hay 7,2% GDP năm 2005. Cùng thời điểm, tổng giá trị trái phiếu niêm yết cũng chỉ đạt khoảng 6,9% GDP năm 2005, trong đó hầu hết thuộc trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương (chiếm khoảng 97%)8. Có rất ít trái phiếu công ty được phát hành. Thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của nền kinh tế và kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam.

Mẫu hình thị trường tài chính Việt Nam cơ bản là dựa vào ngân hàng hay do ngân hàng chi phối (bank-based or bank dominated financial market), trong khi thị trường tín dụng lại chứa đựng không ít vấn đề như:

(1) Mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn cao. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước hiện chiếm gần 80% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng. Nhóm khách hàng truyền thống của các NHTM Nhà nước là các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu tập trung vào đối tượng các

7 TS. Võ Trí Thành, Trưởng ban NCCS hội nhập - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, tham luận Thị trường tài chính Việt Nam: Thực trạng và tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO.


8 Nghiên cứu trao đổi, Bức tranh toàn cảnh về thị trường chứng khoán, (08/01/2007 16:18), http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=39818

doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhóm khách hàng của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tín dụng theo ngành cũng phản ánh sự phân khúc thị trường tín dụng, nhất là đối với các NHTM Nhà nước, mặc dù với mức độ đang giảm.

(2) Rủi ro tín dụng, nhất là vấn đề nợ xấu vẫn còn hiện hữu. Tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ của hệ thống NHTM được công bố đã giảm từ 13% năm 2000 xuống còn 3,4% năm 20059. Tuy nhiên, nếu dựa trên cách phân loại quốc tế về nợ, thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM có thể lớn gấp nhiều lần con số công bố. Hơn nữa, nguy cơ tiếp tục phát sinh nợ quá hạn là khá cao do nhiều dự án đầu tư chưa được kiểm định chặt chẽ về tính hiệu quả và khả thi, trong khi quá trình cải cách các DNNN lớn mới chỉ thực sự được triển khai từ năm 2005.

(3) Vấn đề “sai lệch kép” cũng đáng lo ngại. Với tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng 75%, nguy cơ sai lệch về cơ cấu thời hạn trong bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là tương đối lớn. Nguy cơ này có thể tăng trong bối cảnh các NHTM có thể sử dụng tới 25-30% tổng huy động vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm trong hai ba năm lại đây, song mức độ vẫn còn khá lớn và lại rất nhạy cảm với biến động tỷ giá, lãi suất, nhất là trong môi trường đô la hóa cao.

(4) Rủi ro tín dụng có thể tăng còn do thu nhập của các NHTM chủ yếu dựa trên nguồn thu từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay, mặc dù nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng đã có bước phát triển trong 3-4 năm lại đây. Phần lớn các khoản vay lại được thế chấp bằng bất động sản,

9 T.S Phan Minh Ngọc, ĐH Kyushu Nhật Bản, Nợ xấu chưa được xử lý từ gốc? Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 50 - 2006, ra ngày 10/12/2006.

trong khi thị trường bất động sản biến động mạnh. Các khoản vay được thế chấp chứng khoán tuy có tỷ trọng chưa lớn song cũng đáng lo ngại khi năng lực của các nhà đầu tư cá nhân còn thấp và thị trường chứng khoán (TTCK) vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây biến động lớn về giá cả.

Trong khi đó, năng lực giám sát, quản trị ngân hàng còn nhiều hạn chế. Công tác giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Quá trình giám sát từ xa còn bất cập trong việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong bối cảnh các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng thật rộng rãi, nhất quán. Công tác giám sát tín dụng cũng chưa bao quát hết toàn bộ các định chế tài chính có liên quan đến hoạt động tín dụng do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và do mô hình quản lý hệ thống tài chính hiện tại về thực chất là quản lý theo định chế tài chính. Các quy định quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản lý rủi ro, quản trị tài sản có, tài sản nợ, kiểm toán nội bộ,mới được áp dụng, nên chưa thật sự có hiệu lực và hiệu quả. Nhìn chung, trình độ quản trị nội tại ngân hàng chưa đáp ứng tốt các chuẩn mực quốc tế như CAMEL và BASEL.

Thị trường chứng khoán vẫn còn ít các định chế tài chính quan trọng như các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tương hỗ. Các công ty định mức tín nhiệm tuy đã xuất hiện nhưng hoạt động chưa thực sự chuyên nghiệp, chưa được thế giới công nhận. Các nhà bảo lãnh phát hành chủ yếu là các NHTM Nhà nước. Các công ty chứng khoán chưa đóng vai trò nhà tạo lập thị trường quan trọng trên thị trường, mới chỉ thực hiện bảo lãnh phát hành đối với trái phiếu chính phủ. Các nhà đầu tư cá nhân nhìn chung chưa có tính chuyên nghiệp; hành vi đầu tư thường mang tính ngắn hạn, “bầy đàn”, gây biến động mạnh về giá và làm giảm độ tin cậy đối với thị trường, nhất là trong bối cảnh mức độ công khai, minh bạch của thị trường chưa cao.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/09/2022