lực của thơ và nhà thơ” [195; tr 20]. Sự thay đổi quan niệm đó dẫn đến sự nhận thức lại quan hệ giữa thơ và hiện thực. Hiện thực trong thơ không chỉ là hiện thực được chọn lọc mà phải là một hiện thực toàn diện, cả mặt sáng lẫn mặt tối “Nay hiện thực được phản ánh không phải chỉ ở bề mặt mà còn ở bề sau, bề sâu, bề xa, ở những góc khuất, thậm chí những xó tối… Hiện thực được phản ánh như nó đang có, vốn có” [195, tr.22], “Với quan niệm như vậy, sau năm 1975 đã hình thành một dòng thơ thế sự với cảm hứng sự thật” [6, tr. 33]. Quan niệm thơ thay đổi tất yếu dẫn đến quan niệm về nhà thơ cũng thay đổi. Nhà thơ chống Mỹ hiện lên với vóc dáng hào hùng sử thi, mang trong mình sứ mệnh cao cả cải tạo xã hội “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” (Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Chế Lan Viên); “Chào 61! đỉnh cao muôn trượng Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng/ Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau/ Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!” (Bài ca mùa xuân 1961
– Tố Hữu). Nhà thơ thời hậu chiến, đặc biệt thời Đổi mới coi mình là một con người bình thường như bao nhiêu người bình thường khác “Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu” Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh - Chế Lan Viên); thậm chí chỉ như cỏ dại “những mong có ích cho người/ dẫu làm thân cỏ dập vùi sá chi” (Cỏ dại - Nguyễn Duy).
Vậy sự vận động của quan niệm thơ đầu thế kỉ XXI như thế nào?
Nhìn một cách tổng quát, quan niệm thơ đầu thế kỷ XXI đa dạng, thậm chí có lúc đối lập. Quan niệm thơ truyền thống rằng thơ là địa hạt của cảm xúc, cái đẹp cái cao cả vẫn được một bộ phận không nhỏ nhà thơ tâm niệm, có thể liệt kê ra đây một vài ví dụ: Thơ hay phải xuất phát từ sự thăng hoa cảm xúc, thơ ra đời trong giây phút xuất thần của người nghệ sĩ: “Khát vọng tức tưởi/ Máu xông từ đầu mắt tay/ Khi đỉnh điểm thái dương loe lóe/ những con chữ bỗng nhiên hiển linh/ Và nắng được tẩm liệm trong suốt.” (Những con chữ nhảy lò cò - Lê Hưng Tiến). Quan niệm này từ xưa đã được cổ nhân khẳng định nhiều lần “thơ khởi phát từ trong lòng người ta” (Lê Quý Đôn); “hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần” (Ngô Thì Nhậm). Bên cạnh cảm xúc, thơ cần phải phải có giá trị tư tưởng, hướng con người tới sự cao cả “Thơ càng hay càng chớ màng bất tử/ Miễn đừng để loài người hèn hạ, tối tăm đi” (Thơ hay có cần phải chết - Bằng Việt). Cảm xúc, tư tưởng trong thơ có được đến đâu phụ thuộc vào chủ thể sáng tạo là người nghệ sĩ. Cảm xúc có thể do
thiên bẩm, nhưng tư tưởng và sáng tạo thì phải là kết quả của quá trình lao động cần cù, siêng năng. Nhà thơ được ví như con ong chăm chỉ hút nhụy tinh hoa của cuộc sống làm ra mật ngọt là những tác phẩm thơ: “Ai biết được/ từng con ong/ giấu mật vào đâu/ chỉ thấy tổ ong mỗi ngày mỗi lớn/ mật chảy như suối ngàn/ Thế mà tưởng ong dạo chơi có đấy/ Chỉ loài hoa/ loài hoa mới thấy/ ong cần cù siêng năng” (Ong - Lê Duy Phương).
Ở phía ngược lại, một số nhà thơ hiện nay hầu như khước từ chức năng xã hội của thơ ca. Với họ, thơ chỉ là phương tiện giải tỏa những xúc cảm tiêu cực “Viết với tôi, như một cách để sống chung dung hoà với những cảm xúc đơn độc, buồn bã” (Trương Quế Chi). Hoặc, thơ chỉ là trò chơi chữ nghĩa “người làm thơ thực hiện một trò chơi nghiêm túc, sử dụng những phép tu từ học (ám dụ, hoán dụ, lược tỉnh, ghép âm, nói lái, nói lối…) như một đứa trẻ chơi với những đồ vật chung quanh... Người làm thơ chơi những phép tu từ như một thứ bẫy vô thức. Anh ta sinh sự với ngữ nghĩa và ngữ pháp để tạo ra một sự sinh mới cho thơ... Người làm thơ rắp tâm biến ngôn ngữ tiêu dùng thành một thứ ngôn ngữ trò chơi” [31]. Ở các nhà thơ theo khuynh hướng hậu hiện đại, quan niệm thơ còn bị đẩy đi xa hơn nữa, hoàn toàn thoát ly khỏi các quan niệm thơ trước đây khi họ chủ trương “khước từ đại tự sự”, “giải cấu trúc”, “giải huyền thoại” trong thơ: “Nhà hậu hiện đại giải mơ mộng của nhà lãng mạn, giải ảo tưởng của nhà lí tưởng, hủy trung tâm để thiết lập nhiều trung tâm nhỏ lẻ khác, đặt đại tự sự vào thế chông chênh để nó luôn tự xét lại mình,...” [70].
Nhưng bao trùm lên quan niệm thơ đầu thế kỷ XXI đó là quan niệm coi thơ là sự độc đáo, khác biệt. Muốn tìm được sự độc đáo, khác biệt đó, nhà thơ cần một sự lột xác. Hầu như khát vọng “tách khỏi bầy đàn” đi tìm một lối đi riêng, khác biệt thường trực trong mỗi nhà thơ, không kể đó là nhà thơ lớp trước hay nhà thơ lớp sau. Khát vọng “tìm kiếm cái khác” không phải bây giờ mới có. Từ giữa thế kỷ XX, một số nhà thơ chủ trương mở rộng không gian sáng tạo, đổi mới thi pháp nghệ thuật, trong đó, đáng chú ý là hiện tượng “thơ không vần” của Nguyễn Đình Thi hay sáng tác của Văn Cao, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần,… “Nhưng trước áp lực của “chủ âm” hiện thực xã hội chủ nghĩa, những nỗ lực làm mới này bị coi là những
“nghịch âm” không phù hợp. Rốt cuộc, cố gắng làm mới của Nguyễn Đình Thi và một số nhà thơ khác chỉ có ý nghĩa như những “cánh én” đơn lẻ không đủ sức tạo nên “mùa xuân” trong văn học” [36, tr.68]. Nhưng bắt đầu từ thập niên 90 của thế kỷ XX và đặc biệt trong khoảng những năm đầu thế kỷ XXI, ý thức đi tìm loại thơ mới trỗi dậy mãnh liệt. Bắt đầu từ tuyên ngôn của Nguyễn Lương Ngọc khi nhà thơ này muốn “đập vụn mình ra mà ghép lại/ Nung chảy mình ra mà tìm lòi/ Xé toang mình ra mà kết cấu” (Hội họa lập thể). Người nghệ sỹ dường như muốn “gây hấn”, “nổi loạn” với truyền thống, với chính mình nhằm chống lại những giá trị thẩm mĩ đã trở nên lỗi thời và để xây dựng những chuẩn mực giá trị mới. Điều này đòi hỏi một tinh thần dấn thân quyết liệt, một ý thức và quyết tâm thay đổi tận gốc rễ nhận thức, tư duy. Đổi mới tư duy chính là yêu cầu tiên quyết đối với nghệ sĩ khi đứng trước mục tiêu cách tân nghệ thuật. Nguyễn Quang Thiều cũng có chung một quyết tâm như vậy qua một ẩn dụ “Đêm qua những con cá bơi quanh chiếc giường/ Ngửi chúng ta rồi bỏ đi/ Và bực dọc nói:/ Chúng ta không bao giờ ăn những con mồi chết/ …/ Giữa bất tận những con mồi/ Bầy cá nhắm mắt/ Chỉ mở ra khi nghe lệnh/ Nhưng một con không chịu nhắm mắt/ Trong suốt cuộc săn tìm/ Rời bỏ bầy quay lại/ Và nói với một con mồi:/ Ngươi đã hết thời gian chết!” (Những con mồi). Đây là lời cảnh tỉnh, thơ không đổi mới là thơ chết, nhà thơ không đổi mới cũng chỉ là những xác chết và từ đó riết gióng cảnh báo nhà thơ cần phải làm gì đó bởi “ngươi đã hết thời gian chết”. Mai Văn Phấn thì phát biểu trực tiếp: “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên mảnh đất đã cằn cỗi” [142, tr.399], và muốn vượt lên chính mình, người nghệ sĩ phải làm một cuộc “vong thân”.
Các nhà thơ trẻ còn quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa. Những phát ngôn của họ tuy có phần ồn ào nhưng qua đó có thể thấy sự hăng hái, sôi nổi cũng như ý thức khẳng định mình của giới trẻ. Văn Cầm Hải tuyên bố chắc nịch “anh không ăn bóng một thời thơ đã qua” (Apollinaire). Vi Thùy Linh quan niệm: “Tôi luôn muốn tạo sự độc đáo riêng biệt trong lối tư duy, diễn đạt và hình ảnh. Tôi muốn làm những điều chưa ai làm, hoặc không ai làm được, khó “nhái” được, dù cho vì sự tiên phong
mạnh mẽ, tôi đã chịu nhiều thiệt thòi, cô lập, thậm chí là sự tấn công của những người bảo thủ, tư duy cũ. Chính những đòi hỏi ấy ở bản thân khiến tôi trở nên vất vả mỗi khi sáng tạo, vì tôi luôn buộc mình không được lặp lại tôi, không giống người khác trong nghệ thuật, để tạo được dấu ấn riêng, là điều không dễ có, không dễ làm được. Sống tận lực bằng tình yêu cuộc sống, cá tính đời thực và cá tính nghệ thuật của tôi là một. Tôi dám sống, dám dấn thân, dám đi đến cùng. Không mưu toan vụ lợi gì, vào thơ, tôi yêu thơ bằng tình yêu say đắm, tận trung của một người si tình, chung tình, không tiếc gì cho tình yêu ấy” [80]. Nhà thơ trẻ luôn khát khao biểu hiện cái tôi bản thể mang tính khác biệt và chấp nhận sự cô độc của mình trên con đường sáng tạo: “Với tôi, cuộc đi đẹp nhất trong sáng tạo, là độc mã. Tôi phục những con thú dám tách khỏi bầy, dù nó sẽ gặp nhiều hiểm nguy” [80]. Gần với quan niệm này, Phan Huyền Thư cũng cho rằng: “Nhà thơ bây giờ đồng nghĩa với cá tính và khác lạ” [80]. Ly Hoàng Ly thì bộc bạch: “Tôi làm nghệ thuật là để khám phá thế giới quanh mình và khám phá chính mình. Tôi sử dụng mọi phương tiện nghệ thuật, phương pháp thể hiện, những kỹ thuật mà mình học được, tìm được để có thể thể hiện ý tưởng của mình trong tác phẩm. Nhưng tôi thấy cái quan trọng nhất của mọi người sáng tác trong mọi thời đại, là sự đắm đuối thực sự với nghề, và trung thực với cảm xúc, tư tưởng của mình” [80].
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI - 5
- Thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI - 6
- Sự Vận Động Và Đổi Mới Quan Niệm Nghệ Thuật Về Thơ
- Khuynh Hướng Bảo Tồn Các Giá Trị Thơ Truyền Thống
- Khuynh Hướng Cách Tân Thơ Triệt Để
- Biển Đảo Quê Hương, Chủ Đề Nổi Bật Nhất Trong Cảm Hứng Lịch Sử Dân Tộc Đầu Thế Kỉ Xxi
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
Hệ quả tất yếu của khát vọng đi tìm cái mới lạ và độc đáo là các nhà thơ muốn khám phá những đối tượng biểu đạt mới và những cách thức biểu đạt mới.
Hiện thực đời sống đã được phản ánh bao đời nay; để tìm nguồn cảm hứng mới, thơ đương đại đào sâu vào thế giới tâm linh, vô thức. Từ cuối thế kỷ XX, Mã Giang Lân đã dự cảm hướng đi của thơ đương đại: “Thơ cần có nhiều tìm tòi để nói được những điều sâu kín, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn của con người, thơ phải thực nhưng cũng cần phải ảo, có ý thức và cả vô thức, tiềm thức, tâm linh, có cảm và có nhận” [84, tr.175]. Còn Nguyễn Khắc Thạch thì cho rằng thơ phải là “sứ giả của thế giới tâm linh” [132, tr.358]. Hoàng Hưng nhận thấy sự bất lực của lối thơ quen thuộc trong việc biểu đạt đời sống bề sâu, những rung cảm chưa rò rệt, những tâm trạng đang sinh thành, những vật lộn sáng tối trong lòng người. Nhà thơ ước ao mở tung không gian hai chiều, mở ra chiều thứ ba của thị giác, chiều thứ tư
mộng giác, chiều thứ năm ảo giác, chiều thứ sáu linh giác” [68]. Nguyễn Hữu Hồng Minh trả lời phỏng vấn của Phạm Xuân Nguyên: “Thơ trong thời đại mới không còn băn khoăn đến những vấn đề quá rò ràng, những sự việc ai cũng thấy và nắm bắt được. Nó phải hướng tâm hồn bạn đọc về một nơi xa hơn, một thế giới ở vào ngoại vi của thế giới được nhận thức” [119].
Bên cạnh đó là khát vọng tạo nên những cách biểu đạt mới. Trần Quang Quý quyết liệt “Tôi không nói bằng chiếc lưỡi của người khác” (Lời). Phan Huyền Thư thấy mình không thể viết “Những vần thơ ảnh viện/ Khóc buồn vui không màu/ Cười những nụ cười giống nhau” (Ảnh viện) ,.... Muốn tìm ra cách biểu đạt mới, cái mà nhà thơ quan tâm đầu tiên đó là ngôn từ - chất liệu làm nên thơ. Các nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng,… đã khơi nguồn và phát triển “thơ dòng chữ” trong thế kỷ XX. Sang thế kỷ mới, nhiều nhà thơ trẻ tiếp tục trò chơi với chữ nghĩa đó. Vi Thùy Linh tự nhận thấy mình “là người chủ công cho việc sáng tạo hình ảnh và ngôn ngữ”. Phan Huyền Thư tâm niệm “Khi đặt bút viết thì có nghĩa là đang cố gắng tạo ra một giá trị mới cho ngôn ngữ” [dẫn theo Đặng Thu Thủy; 195, tr.27]. Nguyễn Hữu Hồng Minh yêu cầu phải coi tiếng Việt cũng là một đối tượng sáng tạo chứ không chỉ là phương tiện chuyển tải “Các nhà thơ Việt sử dụng tiếng Việt nhưng lại bỏ quên tiếng Việt. Họ xem ngôn ngữ như một phương tiện chuyển tải chứ chưa xem nó như một đối tượng sáng tạo. Đó là một sự bỏ quên rất đáng cảnh tỉnh… Cái chết của một nhà thơ là cái chết của chữ và sự bất tử của họ cũng do chính từ trường của những con chữ của họ tạo nên… Vai trò của nhà thơ, nghĩ cho cùng là vai trò của chữ” [196]. Một số nhà thơ khác tuy không phát biểu trực tiếp nhưng bằng thực tiễn sáng tác của mình đã thể hiện quan niệm đó. Trần Nguyễn Anh làm thơ bằng cách cắt xén, lai ghép các từ, chữ âm, sắp xếp chúng theo một khuôn hình chủ ý nào đó: hình thơi, hình tam giác, hình tháp, hình thang,…; chọn một câu thơ chốt rồi sắp xếp, đảo vị trí của chúng một cách bất định để tạo thành các câu thơ mới mang ý nghĩa mới, hoặc kì công tạo ra những đoạn thơ gồm những từ lấp láy, những dãy từ bắt đầu từ một chữ cái, có khi là một câu hỏi điệp đi điệp lại sau những dòng thơ chỉ sắc thái như những kí hiệu chỉ sắc thái ghi trong một bản nhạc. Nguyễn Thị Từ Huy có những sáng tạo lạ với chữ cái, nhà thơ
chế ra những cái khuôn mang hình chữ cái và đặt vào trong đó những dòng từ, tạo thành những bài thơ mang hình chữ cái. Nguyễn Đăng Điệp đã khái quát ý thức đi tìm cái mới lạ, khác biệt của các nhà thơ hiện nay bằng nhận định sau đây: “Khác với các nhà thơ truyền thống lấy thần cú nhãn tự làm sở đắc, các nhà thơ đương đại chú ý nhiều hơn đến việc tổ chức cấu trúc văn bản nghệ thuật, chú ý nhiều hơn đến cách nói của mình. Mà với họ, cấu trúc thơ (bao gồm cấu trúc ngôn ngữ, cấu trúc thi ảnh, thiết tạo giọng điệu, trò chơi văn bản,...) được hình dung như những cuộc chơi, những kiểu chơi bất tận. Dĩ nhiên, để chơi được và chơi hay trong lĩnh vực nghệ thuật là chuyện không hề đơn giản: Nghề chơi cũng lắm công phu - Nguyễn Công Trứ. Ở đây, chơi được xem như một hình thức phiêu lưu trong trong nghệ thuật, là hình thức mở rộng biên độ của tưởng tượng và sự bùng nổ của những giấc mơ, là những nẻo đường nhà thơ vượt ra khỏi các quy phạm nghệ thuật. Vì thế, để “chơi” một cách thực sự, nhà thơ vừa đầy ngẫu hứng vừa hết sức chặt chẽ trong tổ chức diễn ngôn nghệ thuật của mình” [36, tr. 69].
Quan niệm về thơ thay đổi tất yếu dẫn đến quan niệm về nhà thơ cũng thay đổi. Nhà thơ thời nay không “đứng trên đỉnh cao muôn trượng” để phóng tầm mắt “nhìn về tám hướng” (Tố Hữu), cũng chẳng phải là “nhà thơ cưỡi trâu” (Chế Lan Viên) mà là nhà thơ mang sứ mạng sáng tạo tiên phong. Nhưng phàm đã là người tiên phong đều không tránh khỏi lạc lòng, cô đơn giữa đồng loại. Nhà thơ đương đại dám chấp nhận bi kịch đó để có thể đem lại cái gì đó mới mẻ hơn cho thi đàn. Đây là chân dung nhà thơ đương đại của Nguyễn Quang Thiều: “Chàng trở thành kẻ điên khùng của thế giới câm ngọng/ Và luôn luôn mang gương mặt của đứa trẻ đau ốm/ Nhưng đêm đêm đầu chàng lắc lư một quả chuông lớn/ tiếng nó làm rung những vòm cây và những ngọn đồi” (Nhà thơ). Bởi vượt thoát ra ngoài những khuôn khổ truyền thống, nhà thơ sáng tạo trở thành tâm điểm của sự đả kích. Họ trở thành kẻ lạc loài, đáng thương giữa đồng loại. Nhưng đối lập với vẻ ngoài tội nghiệp, đau ốm là những tư tưởng và khát vọng lớn dự báo sẽ làm thay đổi cả xã hội. Còn đây là một tâm thế rất ngạo nghễ nhưng cũng rất đáng thương của Vi Thùy Linh “Tôi là một nhà thơ sôlô. Tôi không cần dàn đồng ca. Tôi sẵn sàng là một chiến binh có thể bị tử đạn để tạo nên làn sóng mới trong thi ca” [196]. Nguyễn Hữu
Hồng Minh thì khẳng định bản thân đã tạo dựng nên một còi riêng “Riêng anh một chân trời/ Riêng anh một tuyên ngôn, một cuộc chơi” (Sự sống thật). Nhìn bề ngoài, còi riêng ấy thật tự do, tự tại nhưng ẩn sau đó là nỗi chua xót của sự cô đơn tuyệt đối. Mặc dù thế, nhà thơ đương đại vẫn sẵn sàng chấp nhận bi kịch đó. Thậm chí, dù biết trước thất bại, họ vẫn muốn dấn thân “Thơ không tìm nơi cư trú trong đám đông. Nó chỉ ám những kẻ tích trong người nguồn năng lượng Bóng Tối. Kẻ giàu bóng tối là kẻ thất bại/ Nhưng thất bại trong ánh sáng của phiêu lưu” (Thời gian nguội – Nguyễn Quốc Chánh).
Khi nhà thơ quyết tâm dấn thân vào những thử nghiệm sáng tạo mới, mối quan hệ giữa nhà thơ và công chúng cũng thay đổi. Nhà thơ không còn lựa chọn độc giả để viết, họ không hạ tầm mình xuống cho vừa với các tiêu chuẩn hay ý thích của người đọc: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [142, tr.378]. Khi từ chối chạy theo sở thích của người đọc, nhà thơ đối diện với vấn đề: không có hoặc có quá ít độc giả, bởi chắc chắn độc giả chỉ đọc những gì mình thích, chẳng ai mất thời gian đọc cái không thuộc thị hiếu của mình. Nhưng một số nhà thơ cách tân tin tưởng vào khả năng của bản thân sẽ tạo nên độc giả cho dù là số ít. Họ quan niệm thà có ít độc giả nhưng vẫn được là chính mình, còn hơn được nhiều người đọc nhưng phải uốn mình chiều theo sở thích của người khác. Nguyễn Vĩnh Nguyên khi được hỏi “Bạn thích đối tượng đọc của mình là 10 hay 1.000 người?” đã không ngần ngại lựa chọn “Nếu chọn giữa số 10 và 1.000 thì đến một đứa bé cũng thích con số nhiều hơn, thậm chí, có thể nó sẽ thích 10.000 cơ. Nhưng tôi sẵn sàng hy sinh con số 1.000 để chọn lại con số 10 kia, nếu nó thực sự đòi hỏi và kích thích tôi rơi vào một cuộc mạo hiểm và tự đổi mới mình chứ không buông theo thị hiếu và số đông kia để tự huyễn hoặc và rơi vào đơn điệu, nhàm chán. Thậm chí nếu đủ sức để làm nên giá trị mới, tôi nghĩ nhiều nghệ sĩ tiền phong sẽ sẵn sàng viết cho một lớp độc giả tiềm năng hoặc mở ra một lối khai phá mà anh ta chỉ là viên đá lót đường không được lịch sử nhắc tới.” [120]. Đó là sự lựa chọn rất cá tính. Như vậy, không phải các nhà thơ cách tân
không cần độc giả mà thực ra họ rất cần, có điều họ chỉ cần những người hiểu họ và tôn trọng những nỗ lực khai phá lối thơ mới của họ. Nếu không cần độc giả, họ đã chẳng nhọc lòng “tiếp thị” thơ mình bằng cách đăng lên mạng Internet, gắn thơ với nghệ thuật trình diễn, thậm chí có nhóm tác giả còn xuất bản dưới hình thức photocopy tránh sự kiểm duyệt của cơ quan chức năng để đưa thơ đến với người đọc.
Các nhà thơ hiện nay mong muốn người đọc cũng phải thay đổi cách tiếp nhận tác phẩm của họ, bởi không thể áp dụng cách đọc, cách cảm, cách hiểu thơ truyền thống lên thơ cách tân. Mai Văn Phấn quan niệm: “Quá trình vượt thoát khỏi những quan niệm cũ không chỉ đặt ra cho các nhà thơ mà cho cả người đọc. Phải là cuộc song hành, đồng bộ, nhà thơ và bạn đọc mới có thể gặp nhau, cùng kích hoạt những tác phẩm văn học có giá trị” [142, tr. 380]. Lê Đạt nhắn nhủ với người đọc rằng “Đọc thơ tôi, đừng cố gắng tìm hiểu nghĩa, hãy cùng biểu nghĩa thì hơn” [26]. Khi xây dựng tác phẩm, nhà thơ không để cho tác phẩm mình chỉ có một loại nghĩa duy nhất mà tạo ra những biến ảo nghĩa vô hạn và người đọc tự do khám phá và tạo nghĩa tùy theo cảm nhận của mình. Nguyễn Thúy Hằng “từ chối một cách sống và lối viết ngăn nắp, có trình tự và tử tế”, nhà thơ muốn “thử thách sự kiên nhẫn của bạn đọc”, “thay đổi cách cảm thụ, thay đổi cách đọc thông thường” [Dẫn theo Đặng Thu Thủy; 195, tr.39]. Thực ra lý thuyết đồng sáng tạo đến nay không còn là mới. Lý thuyết tiếp nhận hiện đại đã khẳng định vai trò của người đọc như là một đồng sáng tạo với nhà văn trong việc tạo ra giá trị mới cho tác phẩm văn học. Với quan niệm này, tác phẩm văn học vừa là sáng tạo của nhà văn, vừa là nơi hoạt động của ngôn ngữ, nhưng đồng thời vừa là nơi tiếp nhận những sáng tạo từ phía người đọc để tạo nên những nét nghĩa mới cho tác phẩm văn học như là hình thức đọc đặc trưng mà lý luận từ phía sáng tác không giải thích được. Tuy nhiên, các nhà thơ đương đại muốn nâng tầm sáng tạo của người đọc lên một bậc, người đọc có mặt trong quá trình sáng tác của họ không phải để họ phải viết thế nào làm hài lòng độc giả mà là để thử thách độc giả. Nhà thơ giống như là người tổ chức trò chơi ngữ nghĩa, còn độc giả là người chơi, nhưng người chơi này phải có tầm tiếp nhận nhất định mới có thể tham gia vào trò chơi đó. Bởi vậy, độc giả của các nhà thơ cách tân là độc giả đặc tuyển.