em còn mải cuộc chơi/ thì tôi cầm cái kiếm lời lãi thêm/ Lên cao rũ hết ưu phiền/ chim trời cá biển có biền biệt tăm/ Vẫn tin giữa tháng là rằm/ qua ngày bạc muộn lại đằm thắm tươi/ Nếu em miên viễn xã xôi/ thì tôi còn lại tóc bồi hồi xanh/ Nếu em vứt bỏ hư danh/ thì tôi hết nợ hết canh cánh chờ/ Mai này thôi kiếp bơ vơ/ ta về với cỏ với bờ bến xưa”. Toàn bài sử dụng từ láy rất nhiều nhưng không nhìn ra sự khiên cưỡng trong sử dụng từ ngữ. Để làm được điều đó cần một vốn từ vựng phong phú. Lối sử dụng từ láy này còn thấy trong các bài khác như Thu, Kiếp trước, Chiều, Ngẫu hứng đầu năm,… tạo thành một kiểu chơi chữ rất riêng, một kiểu lục bát từ láy của Mã Giang Lân.
Đối với các thể thơ 7 chữ, 8 chữ, 12 chữ cũng vậy. Các thể thơ này cũng bị biến đổi, hoặc ghép dòng, hoặc tách dòng đem lại những nhịp điệu mới:
“Biết nói gì về hoa Sữa đây em, khi hoa lãng tử đã rụng đầy vai áo. Lúc thơm thảo hoa tận cùng thơm thảo, lúc phù du hoa dứt áo phù du…
Hoa Sữa làm nên một nửa mùa thu. Là tinh túy của nắng mùa xuân, gió mùa đông và mưa rào mùa hạ. Mỗi sáng dậy em thấy tình yêu bừng trên má, ấy chính là hương hoa Sữa vừa ghé thăm đêm qua…”
(Hoa Sữa – Lương Ngọc An)
Đoạn thơ trên, nhìn về hình thức mang dáng dấp của câu thơ văn xuôi hiện đại. Nhưng thực chất đó là biến thể của thơ bảy chữ và tám chữ. Giọng điệu êm ái, trữ tình, hình ảnh giàu sức gợi, đó là những đặc trưng của truyền thống.
Ngoài ra, các nhà thơ còn làm mới các thể thơ bằng cách ngắt dòng, vắt dòng, lối thơ bậc thang, không viết hoa đầu dòng,…
Ngôn ngữ thơ cũng có sự biến đổi đáng kể. Ngôn ngữ bớt đi vẻ cầu kì, bỏng bẩy, bớt đi các biện pháp tu từ hình ảnh, ngày càng gần hơn với ngôn ngữ văn xuôi. tuy vậy vẫn không hoàn toàn thoát ly khỏi đặc điểm trữ tình của ngôn ngữ thơ truyền thống: “Vị Thiếu tướng công an cầm chai rượu ra bàn/ Ông Nguyễn Cao Kỳ mới về gửi tặng/ Mọi người đang vui, gật gù bảo “Uống”/ Nhưng một người bảo “Không”/.../ Có phải tự đáy lòng không vượt qua mặc cảm?/ Không vượt qua nỗi buồn của cuộc chiến tranh xưa? Không vượt qua chính mình, không vượt qua quá khứ,/ Vết thương cũ còn đau khi gió chuyển sang mùa...” (Rượu của Nguyễn Cao
Kỳ - Bằng Việt). Đoạn thơ đầu có dáng dấp một câu chuyện kể, ngôn ngữ văn xuôi chiếm ưu thế, vắng bóng chất thơ nhưng đó là tiền đề dẫn mở cảm xúc ào ạt ở đoạn thơ sau: băn khoăn, giằng xé, đau xót thể hiện qua một loạt câu hỏi tự vấn. Dù đậm chất văn xuôi nhưng ngôn ngữ thơ vẫn giàu nhạc tính, khuynh hướng trữ tình lấn lướt hơn khuynh hướng tự sự.
Giọng điệu thơ truyền thống thiên về giãi bày, tâm sự, giọng điệu thơ cách tân trên cơ sở truyền thống nghiêng nhiều về suy ngẫm, triết lý khiến thơ trở nên có độ sâu tư tưởng. Thơ những năm gần đây của Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Khoa Điềm,… thể hiện rất rò điều đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Vận Động Và Đổi Mới Quan Niệm Nghệ Thuật Về Thơ
- Thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI - 8
- Khuynh Hướng Bảo Tồn Các Giá Trị Thơ Truyền Thống
- Biển Đảo Quê Hương, Chủ Đề Nổi Bật Nhất Trong Cảm Hứng Lịch Sử Dân Tộc Đầu Thế Kỉ Xxi
- Dòng Thơ Thế Sự Ngày Càng Chiếm Vị Trí Chủ Đạo
- Trở Về Với Các Giá Trị Truyền Thống Như Một Giải Pháp Chống Lại Sự Tha Hóa
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
2.3.3. Khuynh hướng cách tân thơ triệt để
Cách tân thơ Việt theo hướng thoát ly hẳn với thơ truyền thống không phải đến bây giờ mới bắt đầu thực hiện. Đầu tiên phải kể đến Trần Dần, Lê Đạt rồi Hoàng Hưng, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn… họ đã thử nghiệm cách tân thơ từ thập niên 80 của thế kỷ XX, và cho đến thời điểm này, nhiều người trong số học vẫn tiếp tục công việc đó. Sang thế kỷ XXI, xuất hiện thế hệ các nhà thơ trẻ hơn có một khát khao mãnh liệt cách tân thơ Việt theo những hướng khác nhau, có thể kể đến như Văn Cầm Hải, Đỗ Doãn Phương, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh, Trương Quế Chi,…. Nhiều trào lưu, khuynh hướng sáng tác thơ ra đời làm không khí thơ trở nên sôi động.
Các nhà thơ cách tân triệt để có mĩ cảm nghệ thuật và thi pháp khác hẳn thơ truyền thống. Với họ, thơ có khi là phương tiện giải tỏa cảm xúc và ẩn ức, có khi là trò chơi ngôn từ nhọc nhằn nhưng thú vị. Thơ dung nạp tất cả, từ cái cao cả đến cái tầm thường, từ nghiêm túc đến suồng sã. Thơ là sáng tạo không giống ai, có khi một bức tranh, một chuỗi kí tự, một dãy con số nhưng họ vẫn bảo đó là thơ.
Cách tân nội dung thể tài biểu hiện rò nhất trong việc các thi sĩ đương đại “tìm kiếm một nguồn sống mới, khai thác sâu hơn vào những tầng vỉa của đời sống tâm linh, vô thức, những ẩn ức khuất chìm trong vùng tối của bản năng sống, bản năng người” [174]. Các nhà thơ cách tân có tham vọng muốn khám phá chiều sâu của còi vô thức, tiềm thức vốn mơ hồ, khó nắm bắt, khó diễn tả, qua đó muốn phá vỡ giới hạn biểu hiện của thơ. Ví dụ như bài thơ: “Con chào mào đốm trắng mũ đỏ/
Hót trên cây cao chót vót/ triu… uýt… huýt… tu hìu…/ Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ/ Sợ chim bay đi./ Vừa vẽ xong nó cất cánh/ Tôi ôm khung nắng, khung gió/ Nhành cây xanh hối hả đuổi theo./ Trong vô tăm tích, tôi nghĩ/ Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu/ Trái cây chín đỏ/ Từng giọt nước/ Thanh sạch của tôi./ triu… uýt… huýt… tu hìu…/ Chẳng cần chim lại bay về/ Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rò.” (Con chào mào – Mai Văn Phấn). Con chào mào trong ba câu thơ đầu là con chào mào có thật. Nó là nguyên cớ dẫn thi nhân lạc vào còi mơ mộng, phiêu diêu như đang nhập đồng. Trong thế giới mông lung ấy, con chào mào, tiếng hót trở thành những ám tượng. Không dễ gì cắt nghĩa được những ám tượng ấy, nhưng có thể cảm nhận được sự mơ hồ, huyền bí trong thế giới vô thức của con người.
Ý thức phái tính nữ (ý thức nữ quyền) và ẩn ức tính dục cũng là vấn đề được các cây bút trẻ khai thác ồ ạt như một cách gây hấn với những cấm kị của thơ truyền thống. Ý thức nữ quyền trong văn học là một chủ trương, một cách tiếp cận về người phụ nữ theo hướng tôn trọng, đề cao, xem người phụ nữ là trung tâm của mọi sự phản ánh. Qua đó, khẳng định bản sắc, giá trị riêng của giới nữ, nhấn mạnh đến sự khác biệt phái tính và đề cao nữ tính. Ý thức nữ quyền trong văn học nói chung và thơ nói riêng là tiếng nói của những cây bút nữ thể hiện nhu cầu giãi bày những trăn trở, suy tư của mình về hiện thực cuộc sống cũng như bày tỏ những quan điểm về vị trí, vai trò, quyền lợi của giới mình và khát vọng giải phóng những ẩn ức tinh thần thầm kín của bản thân thông qua cái nhìn mang đậm cảm quan về giới, mang đặc trưng tâm lí của nữ giới trước hiện thực. Thực ra, thời Trung đại, Hồ Xuân Hương đã là một hiện tượng nữ quyền độc đáo. Tuy nhiên, phải chờ đến sau Đổi mới, ý thức nữ quyền mới thấp thoáng trong thơ Dư Thị Hoàn, Thảo Phương, Phạm Thị Ngọc Liên,… Sang đầu thế kỷ XXI, dòng thơ này trỗi dậy khá mạnh mẽ, đầu tiên là với tập thơ Dự báo phi thời tiết (2005) của nhóm Ngựa trời với 5 cô gái: Thanh Xuân, Lynh Bacardi, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Khương Hà. Trong thơ họ, ta thấy khát vọng muốn nổi loạn để đi tìm cá tính: “Tôi đã rút ván khỏi tôi/ Khỏi đứa bé sinh ra để luôn được người ta nhắc đến làm gương, tị hiềm và ngưỡng mộ/ Khỏi đứa bé rất ngoan và giỏi/ niềm hãnh diện to đùng của mẹ cha/ Đứa bé biết khoanh tay với cả những kẻ vô cớ bạt tai mình và nói: ạ, cảm ơn, rất biết ơn trước
khi biết cong cớn chửi thề” (Mặc cảm chiếm hữu - Phương Lan). Họ muốn được chủ động hết thảy, đặc biệt trong tình yêu: “Mình tự nhủ, đã vậy, mình mua gỗ về khắc hình con chó/ Bày ra giữa chợ mà gào: “Chàng có thương thì chọn chó em/ Nếu cả chàng cũng không thương thì chó nó chọn em/ Nhưng em thế này mà chàng không thương/ thì em thà chọn chó còn hơn chọn chàng” (Buồn không thể tả - Khương Hà). Các gương mặt khác như Đoàn Minh Châu, Phan Huyền Thư, Trương Quế Chi, Vi Thùy Linh,… cũng là những gương mặt nữ quyền tiêu biểu.
Nữ quyền trong thơ hiện nay thường gắn liền với nhu cầu giải phóng ẩn ức tính dục. Nếu trước kia, Dư Thị Hoàn còn khá rụt rè khi nói về sex “Sau phút giây/ Êm đềm trên ghế đá/ Anh không cài lại khuy áo ngực cho em” (Tan vỡ), thì nay các nhà thơ nữ hầu như không kiêng dè khi nói về những khát khao nhục cảm: “Khỏa thân trong chăn/ Thèm chồng” (Chân dung – Vi Thùy Linh), “Tiếng rên rỉ dòng nước trắng ứ bầu vú. Em vật vã cánh cửa mình chưa kịp khép kìa...” (Chở thuê - Lynh Bacardi).
So với cách tân nội dung, thể tài, cách tân về phương diện nghệ thuật biểu hiện còn mạnh mẽ, dữ dội hơn nữa. Từ cuối thế kỷ trước, Trần Dần , Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng,… đã thử nghiệm những loại thơ chưa bao giờ thấy trên thi đàn trước đó qua những tập thơ như Mùa sạch, Bóng chữ, Mea Culpa và những bài thơ khác, Bến lạ,… Có nhiều bài thơ, câu thơ, câu thơ hoàn toàn mới lạ từ cấu tứ, thi ảnh, ngôn ngữ:
“Bầy em én
tin xuân
Hội kênh đầy
tròn mẩy áo
chân trắng ngấn sông quê
nắng mười tám
nắng bờ đê con gái
cây ải cây ai
gió sải tóc buông thề” (Sông quê).
Sang thế kỷ mới, lại có thêm nhiều hơn nữa cách tân thi pháp thể hiện ở việc liên tục phá vỡ cấu trúc thể loại như xóa nhòa ranh giới câu thơ với câu văn xuôi, loại trừ nhạc tính, tẩy giọng, xóa giọng, sử dụng thủ pháp cắt dán, nhảy cóc trong xây dựng hình ảnh, sử dụng kí hiệu, hình vẽ làm chất liệu thay cho ngôn ngữ. Đoạn thơ sau là một ví dụ cho thủ pháp xây dựng hình ảnh theo lối cắt dán: “người đồi mồi/ hạt điện tử cô độc đất Việt/ đã bàng hoàng phím đàn tiên phong/ bình luận biển Đông/ vườn tôi đau ngọn sóng khô tràn tre nứa/ bầy sói mọc lông ấm thành cổ/ bởi mặt đất vắng dần âm tính/ thơ lên còi dương/ một bàn tay lạc nốt/ cánh cửa đỏ ngặt nghẽo cảm giác/ chúng điềm nhiên mời tôi ly trà đặc nắng/ bã mặt trời nghẽn pha cuống họng...” (Cánh cửa đỏ - Văn Cầm Hải). Các hình ảnh đứng cạnh nhau nhiều khi như là một sự lắp ghép ngẫu nhiên phi lôgic. Ở đây có sự phá vỡ cấu trúc, phá vỡ không gian thời gian, các yếu tố hoang tưởng, ngẫu nhiên đan xen với những ý tưởng chủ đạo. Hiện thực phân mảnh, vung vãi trên mặt giấy. Các câu thơ kết hợp lỏng lẻo, có thể thay đổi vị trí mà không tạo ra sự khác biệt nào. Bài thơ không đóng khung trong một nghĩa cụ thể mà người đọc tự tìm lấy nghĩa cho mình, nghĩa là trao quyền sáng tạo lại cho người đọc. Đó là một hệ thống cấu trúc mở.
Cách tân thơ Việt đầu thế kỷ XXI dẫn đến sự ra đời một số trào lưu thơ như Tân hình thức, Hậu hiện đại, Thơ trình diễn,…
Thơ Tân hình thức là phong trào thơ do Khế Iêm khai sinh ở Mĩ vào năm 2000 (chủ yếu đăng ở Tạp chí Thơ, Hoa Kì), Trrong cuốn tiểu luận có tên Tứ khúc (bản tự in), Khế Iêm cho rằng, Tân hình thức trong thơ Việt có những đặc tính chính: cách nói thông thường, vắt dòng, kỹ thuật lặp lại và tính truyện. Tân hình thức Việt với khát vọng cách tân thành thực, chủ trương dòng thơ “mang tinh thần Việt, có khả năng hòa giải và tiếp nhận rất cao, không hề có sự phân biệt giữa dòng này và dòng khác”, “thơ Tân hình thức bỏ vần, tiếp tục hòa giải với nền văn hóa phương Tây. Và cũng trong tinh thần hòa giải, giữa truyền thống và tự do, thơ Tân hình thức Việt là một dòng chảy mới, như tiếng nói của mọi người Việt, tha thiết với sự chuyển đổi, để có thể đập chung một nhịp đập với cộng đồng thế giới rộng lớn. Và bởi tính cách bình dân của nó, thơ Tân hình thức có khả năng chuyên chở tình cảm của mọi con người, phá vỡ tính cao cấp, khó hiểu…có khả năng lấp đi khoảng cách giữa người đọc và sáng tác” [77]. Khát vọng của Tân hình thức là rất
đáng trân trọng, và bởi khát vọng chính đáng đó, Tân hình thức từ một trào lưu thơ phát sinh ở hải ngoại đã lôi kéo được không ít các nhà thơ trong nước tham gia. Tuy nhiên, phong trào này không đem lại nhiều kết quả như mong đợi. Trong bài Thơ mở rộng biên độ, nhà thơ, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân đã nhận xét: “Tân hình thức chỉ là hình thức chưa thể đem đến điều gì mới cho thơ” [85, tr.161]. Insarasa thì khái quát những hạn chế của thơ Tân hình thức như sau: “... vần và lặp lại nguy cơ (và đã từng) đưa thơ vào sự quẩn quanh, nhàm chán; yếu tố tính truyện đã xô rất nhiều bài thơ trở thành lan man và nhảm; ngôn ngữ đời thường khiến không ít người làm thơ lạm dụng ngôn từ dung tục từ đó tầm thường hóa thơ” [70]… Quả thật, nhiều bài thơ Tân hình thức có nội dung nhảm nhí, hoặc “rỗng nghĩa”, không đem lại hiệu quả thẩm mĩ gì:
Thùng thình lình anh vùng vẫy tay xua đuổi em đi mặc dù (em
biết) anh thích em thậm chí nhiều khi rất cần em lắm lúc ban
ngày em cũng đến với anh bất cứ lúc nào chỗ nào anh muốn em bởi vì (em biết) anh vẫn
thích em thậm chí rất cần có em và sẽ một lần nào đó
đón em đến với anh mãi mãi …
(Thứ nguyên 4/534, 046o- Biển Bắc)
Tuy vậy cũng phải thừa nhận rằng, trong thơ Tân hình thức thỉnh thoảng cũng có những bài thơ hay, câu thơ hay, ý tưởng lạ:
Tôi sống trong ngôi nhà không cửa
Mỗi người đến thăm phải mang theo cửa Trên lưng. Lắp vào ngồi nói chuyện, xong, Khi từ biệt họ ra đi cùng với cửa
Sự riêng tư của tôi phụ thuộc vào Việc viếng thăm của những người này
(Nhà không cửa - Phan Nhiên Hạo)
Để so sánh xem thơ Tân hình thức có đem lại hiệu quả gì đặc biệt so với thơ truyền thống, có thể lấy trường hợp bài thơ Những con chữ nhảy lò cò của Lê Hưng Tiến làm ví dụ. Nhà thơ này đã sắp xếp bài thơ dưới hai dạng: Thơ Tân hình thức và thơ truyền thống.
khát vọng tức tưởi máu xông từ đầu mắt tay khi đỉnh điểm thái dương loe lóe những con chữ bỗng hiển linh thì nắng được tẩm liệm
trong suốt, trong suốt. Trong và suốt!
(Bản đăng trên Tạp chí Sông Hương số 280 tháng 6/2012)
Và:
Khát vọng tức tưởi
Máu xông từ đầu mắt tay
Khi đỉnh điểm thái dương loe lóe Những con chữ bỗng nhiên hiển linh Và nắng được tẩm liệm trong suốt.
(Tuyển Thơ mười năm đầu thế kỷ XXI)
Về độ khó đọc thì dĩ nhiên thơ Tân hình thức khó đọc hơn. Nhưng nói rằng lối viết Tân hình thức tạo hiệu ứng thẩm mỹ hơn lối viết truyền thống thì hình như không phải. Có vẻ như lối vắt dòng kia hơi tùy hứng, nhà thơ muốn xuống dòng ở đâu thì xuống (trừ câu thơ cuối). Và như vậy thì còn kém xa lối vắt dòng của Thơ mới, như thơ của Bích Khê chẳng hạn:
Người họa điệu với thiên nhiên, ân ái Buồn, và xanh trời. (Tôi trôi với bờ Êm biếc - khóc với thu - lời úa ngô
Vàng & Khi cách biệt - giữa hồn xây mộ - Tình hôm qua - dài hôm nay thương nhớ..)
(Duy tân)
Không phủ nhận Những con chữ nhảy lò cò là một bài thơ hay, nhưng cái hay chủ yếu toát lên từ ý tưởng chứ không phải toát lên từ hình thức nghệ thuật.
Trong những năm gần đây Thơ trình diễn (poetry performance) là một hiện tượng mới lạ của thơ Việt. Thực ra, trước đây, ở nước ta cũng đã có bóng dáng thơ trình diễn qua hình thức ngâm, vịnh thơ. Nhưng đến đầu thế kỷ XXI, thơ trình diễn xuất hiện với nhiều hình thức mới mẻ, không chỉ là đọc, ngâm mà còn kết hợp với âm thanh, ánh sáng, video art, nghệ thuật sắp đặt, cộng với ngôn ngữ cơ thể. Có thể coi thời điểm đầu tiên xuất hiện loại thơ trình diễn này là năm 2001, họa sĩ Như Huy có một màn trình diễn thơ tại quán cafe EraWine - TP Hồ Chí Minh. Đến năm 2005, Dương Tường thể hiện thơ trình diễn trong chương trình Chiều buông đầy những tiếng thở tại L’Espace (Trung tâm Văn hóa Pháp). Sau đó, thơ trình diễn rộ lên với sự giao lưu, trình diễn thơ của các nhà thơ ngoài nước, trong nước như Roger Robinson, Francesca Beard của Anh, Jean-Michel Maulpoix, André Velter của Pháp, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương, Vi Thùy Linh, Trương Quế Chi, Ly Hoàng Ly, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Thanh Xuân... của Việt Nam. Tuy vậy, cũng cần phải nói rằng, bản chất của thơ vẫn là nghệ thuật của ngôn từ, còn yếu tố trình diễn chỉ là yếu tố phụ trợ để thơ thêm hấp dẫn. Nếu cái hay không đến từ chính bài thơ thì mọi yếu tố trình diễn cũng chỉ là vô nghĩa. Mặt khác việc lạm dụng yếu tố trình diễn đôi khi phản tác dụng bởi người đọc/người xem đôi khi chỉ chú ý đến sự trình diễn mà quên mất việc thưởng thức thơ. Giống như Insarasa đã nhận xét về thơ trình diễn tại Ngày thơ Việt Nam lần thứ VI “nhiều tác phẩm trình diễn thơ minh họa vội và thô làm thơ trình diễn không thể đến được với công chúng” [70]. Bởi vậy, tuy lạ nhưng thơ trình diễn chưa đi được vào lòng khán giả - độc giả.
Thơ hậu hiện đại là trào lưu thơ bắt đầu từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX và ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều người làm thơ theo khuynh hướng cách tân. Thơ hậu hiện đại là trào lưu thơ chịu ảnh hưởng của quan điểm mỹ học hậu hiện đại. Nhận diện thơ hậu hiện đại Việt, Inrasara cho rằng: “Thơ hậu hiện đại vận dụng mọi thủ pháp tiếp nhận từ đồng nghiệp trên thế giới để sáng tạo nhiều loại thơ chưa từng có mặt trong truyền thống thơ Việt Nam trước đó: phỏng nhại, siêu hư cấu sử kí, thơ phụ âm, thơ graphic, thơ thực hiện, thơ cụ thể, thơ phân thân, thơ động tác, thơ tịnh tiến, vân vân. (…). Tất cả xuất phát từ cảm thức hậu hiện đại. Cảm thức thế giới là hỗn độn, nhận thức thế giới của con người luôn đầy thiếu khuyết, các thiếu khuyết