Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 5


càng rộng mở thì nhà thơ càng muốn “ngược mặt trời” mà “tìm bóng núi” để trở về “đêm bên dòng sông” và “hát với sông Năng”. Sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, hiện giờ sống ở thủ đô nhưng nỗi nhớ sơn cước luôn làm ông mất ngủ giữa chốn kinh kỳ (Buổi chiều thành phố). Ông nhớ về Bản Hon, nhớ ngày Lên rẫy, nhớ Núi Cơm Chiều, thèm Lời cô gái xứ Mây, khát lời Nàng ơi uống rượu và luôn in đậm hình bóng Lượn cọi, Cái cầu thang cùng những buổi chiều Việt Bắc Ôi nắng vàng như mật...

Có thể nói “chất Tày” luôn thấm đẫm trong thơ Dương Thuấn, nó là “đinh”, là hồn cốt của phong cách thơ của ông. Nhà thơ đã cầm bút viết về quê hương mình như một sự lắng đọng, ngưng kết đời sống tinh thần, văn hóa, lịch sử, truyền thống dân tộc mình, tạo thành nguồn suối hòa vào dòng sông thi ca Việt để chảy vào biển cả văn hóa nhân loại. Khẳng định “chất Tày” trong thơ Dương Thuấn, nhà nghiên cứu phê bình văn học Phạm Vĩnh Cư đã phát biểu trong buổi giới thiệu bộ ba Tuyển tập thơ Dương Thuấn: “Đọc thơ Dương Thuấn sẽ biết Dương Thuấn là ai? Dương Thuấn là bản Hon! Dương Thuấn là sông Năng! Dương Thuấn là Bắc Kạn! Dương Thuấn là miền núi! Và tôi cho rằng, Dương Thuấn chính là người Tày của người Tày! Là miền núi của miền núi!(…) Bởi vì đọc thơ Dương Thuấn người ta thấy anh yêu dân tộc anh, anh yêu quê hương anh một cách thấm đẫm, tự nhiên, chân thật, mộc mạc nhưng với đầy niềm tự hào”[45]. Quê hương và tuổi thơ với những câu chuyện huyền thoại về hồ Ba Bể, sông Năng, bản Hon đã chắp cánh cho tâm hồn thơ Dương Thuấn. Vì vậy, người đọc thấy một thế giới thơ giản dị, chân thực nhưng cũng lãng mạn, bay bổng, vừa hồn nhiên trong sáng mà hóm hỉnh suy ngẫm. Ít nhà thơ có được một phong vị đậm đặc về quê hương bản quán trong sáng tác như Dương Thuấn.


CHƯƠNG 2‌‌

CẢM THỨC VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN

2.1 Thế nào là cảm thức văn hóa

Cảm thức bao gồm hai yếu tố là cảm giác và nhận thức. Tâm lý học định nghĩa cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của ta. Cảm giác không chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của đối tượng bên ngoài mà còn phản ánh những trạng thái bên trong của cơ thể. Ví dụ như với một người lữ khách tha phương khi nhìn thấy khói bếp lan tỏa trên những mái nhà trong lòng tự trào dâng cảm xúc bồi hồi nhớ thương về quê nhà. Tâm lý học trong cuốn Giải thích thuật ngữ Tâm lý – Giáo dục học cũng định nghĩa: nhận thức là toàn bộ những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc được chuyển hoá, được mã hoá, được lưu giữ và sử dụng. Hiểu nhận thức là một quy trình, nghĩa là nhờ có quy trình đó mà cảm xúc của con người không mất đi, nó được chuyển hoá vào đầu óc con người, được con người lưu giữ và mã hoá. Với yếu tố cảm giác và nhận thức con người có khả năng tiếp cận trực tiếp hơn với bản chất của sự việc. Ví dụ, khi đứng trước một người mới gặp, một số người có thể cảm nhận được suy nghĩ tư tưởng của người đối diện như thế nào nhưng một số người khác lại chỉ cảm nhận được về vẻ hình dáng bên ngoài. Trong cuộc sống có không ít những người có khả năng cảm thức hơn những người bình thường như Beethoven bị điếc nhưng ông lại có thể sáng tác ra những bản giao hưởng tuyệt vời. Cho nên không thể nhìn vào trực giác về hình dáng bên ngoài để đánh giá một con người. Do vậy cảm thức chính là sự kết hợp giữa cảm giác và nhận thức Cảm thức cho ta một cái nhìn gần hơn với bản chất của sự vật, sự việc hoặc một cái nhìn nhất định về sự vật, sự việc đó.

Như vậy có thể hiểu, cảm thức thơ đó là sự hòa quyện hữu cơ không thể tách bạch giữa xúc cảm và trí tuệ, giữa cái nhà thơ cảm và cái nhà thơ


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

nghĩ. Nhà thơ nhiều khi thấy mình như đang trôi, đang đắm chìm, đang bị cuốn đi trong một cõi hỗn mang của vô thức. Trong cái cõi đó, nhà thơ ta nhận thức thế giới. Đây chính là con đường dẫn đến những phi lý của thơ ca mà người ta thường ta thường nói tới những hiện tượng không thể lý giải.

Từ sự giải thích và định nghĩ hai thuật ngữ cảm thức văn hóa (xem Chương 1 mục 1.1.1 Khái niệm văn hóa), chúng ta có thể hiểu cảm thức văn hóa là sự nhận thức về hệ giá trị xã hội - bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc. Quá trình nhận thức ấy, chủ thể sẽ phải dùng đến cảm xúc, trí tuệ để bày tỏ thái độ của mình trước một hiện tượng hay một giá trị mà cộng đồng đã coi là chuẩn mực. Như vậy cảm thức hoàn toàn là nhận thức chủ quan của một cá nhân nhưng văn hóa lại là hệ giá trị của cả một tập thể. Cảm thức văn hóa suy cho cùng chính là sự nhận thức lại (tác động của cả cảm xúc và trí tuệ) những giá trị chuẩn mực của một dân tộc hoặc cộng đồng.

Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 5

Dưới đây chúng tôi sẽ khảo sát nội dung thơ Dương Thuấn để thấy được các Dương Thuấn đã cảm, đã tư duy về những giá trị văn hóa của cộng đồng của dân tộc ông - dân tộc Tày như thế nào.

2.2 Sự gắn bó, tự hào về quê hương

Tuyển tập thơ Dương Thuấn gồm ba tập: Bản Hon và những nơi khác, Thơ tình, Thơ thiếu nhi dày hơn 2000 trang, in song ngữ (tiếng Tày và tiếng Việt) nhưng đó chắc chắn chưa phải là toàn bộ sáng tác của Dương Thuấn từ trước đến nay. Cách phân chia thành ba tập thơ trên chỉ là cách phân chia theo đề tài còn nếu thâu tóm theo chủ đề “gắn bó, tự hào về quê hương” thì không chỉ gồm những bài thơ viết về bản Hon mà ngay cả thơ tình, thơ thiếu nhi của Dương Thuấn cũng dạt dào tình cảm dành cho quê hương, bản làng. Tình yêu với quê hương là cảm hứng luôn thôi thúc trong tác giả. Thơ viết về quê hương của Dương Thuấn với cảm xúc tràn trề bất tận. Phải yêu nơi chôn rau cắt rốn của mình đến khôn cùng, yêu luôn cả thiên nhiên đất trời, núi non, bản


làng, yêu gió, yêu mây, yêu cả từng con trâu, con ngựa, mỗi loài hoa, cây cỏ thì số lượng bài thơ về quê hương mới phong phú, đồ sộ như thế (800 bài). Dương Thuấn hát những bài ca về lao động, về vẻ đẹp thiên nhiên, con người, phong tục hội hè, về tình yêu trai gái, tình yêu làng bản. Quê hương đi vào trong thơ Dương Thuấn chân thực pha sức gợi cảm. Nó tạo nên sức sống, nét hấp dẫn rất riêng không thể trộn lẫn.

2.2.1 Tình yêu thiên nhiên

Thiên nhiên là mảng đề tài quen thuộc trong thơ Dương Thuấn. Bằng hai mạch cảm xúc: cảm xúc của một con người đang ở miền núi gắn bó, hòa nhập với thiên nhiên và cảm xúc của một con người xa quê hương với bao kỉ niệm sâu lắng, tha thiết, nhà thơ đã vẽ lại hình ảnh thiên luôn gắn với cuộc sống của con người Việt Bắc vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Thiên nhiên Việt Bắc đã từng xuất hiện nhiều trong thơ của nhiều tác giả đi trước như: Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn, Y Phương... khi bước vào thơ Dương Thuấn, cảnh rừng Việt Bắc hiện lên vừa thơ mộng trữ tình nhưng cũng không kém phần hoang sơ, hùng vĩ:

Quê tôi núi ngàn cao vời và lớn rộng Sáng sớm sương trời bay trắng lòng thung

(Quê tôi núi ngàn)

Chỉ với hai câu thơ mà tác giả đã giới thiệu cho bạn đọc những nét đặc trưng đầy thơ mộng về một miền núi ngàn rộng lớn, cao vời vợi, sớm chiều sương phủ. Đặc biệt vào buổi chiều khi hoàng hồn xuống, hình ảnh những ngọn núi, hang đá hiện lên thật hùng vĩ, trùng điệp:

Hoàng hôn xuống Ngắm ngọn Bút Sơn

Ngắm núi Voi oai hùng xung trận

(Chiều bản Hon)


Dương Thuấn có khi đóng vai người chủ hiếu khách, ông làm thơ như để cầm tay, mời gọi bạn đọc về thăm thú, thưởng ngoạn cảnh đẹp quê hương mình. Nơi đây hút hồn người, níu bước chân du khách và ai đến đây cũng có thể tức cảnh mà làm thơ, trở thành thi sĩ trong phút chốc:

Có thể anh chưa bao giờ làm thi sĩ Đến Ba Bể cảnh thần tiên đẹp quá Anh sẽ bồi hồi và tự làm thơ

(Mời anh về Ba Bể)

Lại có lúc nhà thơ hóa mình thành một du khách, bị vẻ đẹp rừng núi làm say đắm. Hình ảnh “gió thổi lá vàng trong nắng thu rơi rơi”, “hoa dại nở khắp triền đồi thắm đỏ” rồi hình ảnh của “trăng bạc thung thăng chạy trên ngọn cỏ”... tạo nên bức tranh thiên thiên đầy thơ mộng, lãng mạn, quyến luyến hồn người. Chính nhà thơ, người đã quá đỗi quen thuộc với những hình ảnh thiên nhiên đó cũng không giấu khỏi sự ngỡ ngàng, vui sướng mà phải thốt lên: “ôi nắng vàng như mật”, “kìa thảo nguyên đẹp thế”. Nếu ai đã sống hoặc đến du ngoạn cảnh đẹp Việt Bắc chắc chắn sẽ đồng ý rằng, thiên nhiên núi rừng nơi đây đẹp nhất là vào mùa xuân. Vì thế thơ tả cảnh đẹp mùa xuân Việt Bắc cũng nhiều hơn trong sáng tác của các thi sĩ. Mùa xuân trên quê hương Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng thường được tác giả miêu tả với những hình ảnh đậm màu sắc miền núi. Đó là hình ảnh hoa lá tựa như tấm vải thổ cẩm trải qua mặt bàn rực rỡ màu sắc trong thơ Nông Quốc Chấn:

Mùa xuân mới về với chúng ta Lá hoa nhuộm đồi đèo rừng núi Như thổ cẩm trải qua mặt bàn

Hay mùa xuân của hoa mơ trắng xuất hiện trong bức tranh tứ bình của nhà thơ Tố Hữu:


Mùa xuân hoa nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

(Việt Bắc)

Nhưng có lẽ viết hay, viết nhiều về mùa xuân Việt Bắc nhất phải kể đến Dương Thuấn. Mùa xuân trên rẻo cao thường được tác giả miêu tả với những hình ảnh đậm màu sắc miền núi. Đó là những rừng đào rực hồng, rừng ban, rừng mơ trắng muốt cùng đua nhau khoe sắc, tạo nên vẻ đẹp rực rỡ cho núi rừng: “Hoa đào nở thắm rồi/ Rừng hoa ban nở trắng/ Dậy ra núi cùng chơi/ Mùa xuân đã đến rồi” (Bài ca mùa xuân) hay: “Theo mùa xuân lên núi/ Bạn sẽ gặp hoa mơ/ Bông nở thành chiếc khuy/ Cài áo mây trắng xóa (Theo mùa xuân đi).

So với mùa xuân, ba mùa (hạ, thu, đông) xuất hiện ít hơn trong thơ Dương Thuấn nhưng cách cảm nhận, cách miêu tả mỗi mùa đó với Dương Thuấn lại có phần lạ hơn so với các thi nhân khác. Cái lạ đó chính là hình ảnh thiên nhiên miền núi trong mỗi mùa luôn mang đến cho người đọc một sự khám phá, một niềm bất ngờ thích thú mới. Nếu như mùa hè ở đồng bằng hay các vùng địa lí khác trên đất nước ta là mùa của nắng thì mùa hè ở vùng cao lại là mùa lũ tràn về: Tháng sáu mưa ngàn/Bất ngờ cơn suối lũ (Tháng sáu). Mùa thu trong thơ từ xưa nay thường mang đến một nỗi buồn man mác, dịu nhẹ trong lòng người nhưng trong thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn thì mùa thu lại đem đến một sự rộn ràng náo nức. Đây là đàn cá võng tung tăng bơi lội giữa dòng nước trong xanh: Sáng sớm lạnh se se/ Sông xanh như lá nghệ/ Cá võng đi từng đàn/ Xuôi theo dòng về bể (Tháng sáu). Và hình ảnh mùa đông vui tươi trong thơ Dương Thuấn khác hẳn với mùa đông lạnh lẽo, đìu hiu, cô đơn trong thơ ca cổ xưa. Đó là một mùa đông vui như đi trẩy hội, một mùa đang được mong đợi: Mùa đông ra đi từ năm ngoái/ Đến hẹn năm nay lại trở về/ Cầy hương vui hội trên ngọn móc/ Lợn lòi dúi mõm ủi dọc khe (Mùa đông).


Đọc thơ Dương Thuấn, miền quê Bắc Kạn hiện lên với nhiều địa danh, danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: hồ Ba Bề, động Puông, rừng Phja Bjooc, sông Năng, nước Bạc, thác Đầu Đẳng, Phủ Thông, đèo Giàng, đèo Gió... nhưng có lẽ địa danh xuất hiện nhiều và ám ảnh nhà thơ nhất là hồ Ba Bể và sông Năng. Hai cảm xúc viết về thiên nhiên của tác giả hòa quyện vào nhau tan vào cảnh hồ Ba Bể và sông Năng để rồi tạo ra một cõi mơ huyền ảo, bồng bềnh gió mây. Dương Thuấn đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại để diễn tả cảm xúc thăng hoa khi viết về hồ Ba Bể:

Đứng ở sườn non đưa tay ra bắt cá Trên thuyền hái được củi đem về

Còn với sông Năng, con sông ấy là hình ảnh đầu tiên hiện lên khi nhà thơ nhớ về quê hương. Trong những đêm trằn trọc không ngủ, nhà thơ vẫn mơ tiếng sóng của dòng sông, lúc nào ông cũng muốn quay trở về để được “hát với sông Năng”.

Bây giờ mỗi đêm nằm lại nghe tiếng sóng

Tiếng thác reo chui vào trong chăn thành giấc mơ

Sự ám ảnh về dòng sông quê hương theo tác giả đi bất cứ nơi đâu, để đến đâu nhà thơ cũng hướng về dòng sông quê hương, cũng nhớ về núi Chẻ Dả, cũng muốn quay về hồ Ba Bể.

Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đẹp, thơ mộng là vậy nhưng có khi thiên nhiên ấy cũng hiện lên thật sự dữ dội. Lũ rừng đã là một “đặc sản” của vùng cao. Nó cuốn đi tất cả những rác rưởi cuộc đời, gây bao tác hại cho đồng bào: Rác rưởi/ Cành khô/ Cuốn đi lớp lớp/ Nước cuồn cuộn trôi/ Gồng lưng đạp vỡ bờ/ (...)/ Hỏi cơn lũ nào hơn phần dữ dội (Cơn lũ rừng – cơn lũ thời gian). Nhà thơ miêu tả thiên nhiên hiểm trở để khắc họa nét gai góc của cảnh rừng Việt Bắc mặt khác còn muốn chứng tỏ sức mạnh, nghị lực sống của con người nơi đây trước sức hủy hoại ghê gớm của thiên tai.


Mỗi nhà thơ đều có một vùng quê riêng, gắn bó với bao kỉ niệm cuộc đời. Quê hương Dương Thuấn là vùng núi cao Việt Bắc hùng vĩ chính vì vậy những vần thơ của ông về quê hương bao giờ cũng bay bổng, phóng khoáng như chính tậm hồn của người dân miền núi:

Tự gieo mình rơi xuống giữa đại ngàn (…)Hóa thành thác bọt tung trắng xóa

(Thác Đầu Đẳng) Tình yêu với thiên nhiên của nhà thơ không chỉ thể hiện ở hành động chiêm ngưỡng, ngắm nhìn và mong muốn quảng bá hình ảnh quê hương đến độc giả mà còn thể hiện ở mối quan hệ hòa quyện, gắn bó giữa thiên nhiên và

con người.

Trên khóm mai tiếng gà rừng thôi gáy Người dắt trâu lộc cộc bước ra đường Tiếng cối giã lên mặt sông rộn rịp

Mịt mù trôi đi dòng nước khói sương…

(Buổi sớm bản Hon)

Vào buổi sớm, bức tranh thiên nhiên ở bản Hon hiện với âm thanh tiếng gà rừng, tiếng giã gạo, tiếng vó trâu lộc cộc cùng hình ảnh “dòng nước khói sương” và hiện lên trên bức tranh ấy là hình ảnh người lao động. Một ngày mới bắt đầu với cảnh vật thanh bình và con người lao động chăm chỉ, mộc mạc. Để ý ta thấy, tất cả các địa danh nổi tiếng Bắc Kạn đều xuất hiện trong thơ Dương Thuấn, đặt bên cạnh những địa danh đó là bản Hon bé nhỏ, đơn sơ. Phải chăng bản Hon là một không gian thu nhỏ của các không gian văn hóa nổi tiếng của Bắc Kạn? Miêu tả bản Hon, nhà thơ khắc họa đó là một không gian động, có thiên nhiên và con người quấn quyện trong sự tuần hoàn, hài hòa với nhau.

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 18/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí