biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả… Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Đặc điểm kinh tế mà đặc biệt về mặc nông nghiệp này đã tạo nên những biểu tượng văn hóa trong tín ngưỡng dân tộc Tày như tục thờ nước, thờ Mẹ Hoa, thờ thần lúa. Người dân thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Họ sống thành bản làng đông đúc, mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Dân tộc Tày còn có tên gọi là Thổ ở Việt Bắc, hoặc Phén (tức là Phiên) ở Hải Ninh; nhưng tên “Tày” đúng hơn cả và được nhân dân Tày xác nhận.
Gia đình người Tày thường quý con trai hơn và có quy định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly hôn. Đã từ lâu dân tộc Tày không còn tục ở rể. Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng không lại tùy thuộc vào bố mẹ hai bên và số mệnh của họ có hợp nhau không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá só của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về hẳn bên nhà chồng.
Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm. Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hoặc các tấm thổ cẩm. Và “áo chàm” đã
trở thành một hoán dụ phổ biến xuất hiện nhiều trong thơ văn để chỉ đồng bào dân tộc Tày nói riêng hoặc các cư dân Việt Bắc nói chung.
Đồng bào Tày có một nền văn hóa tín ngưỡng sâu đậm ngay từ thời kỳ khởi nguyên, và được tiếp tục phát triển theo những xu hướng linh động cho đến hiện tại (có nhiều điểm tương đồng văn hóa tín ngưỡng vùng Việt Bắc – đã trình bày ở trên). Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên, ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ, Mẹ Hoa, lúa. Hàng năm có nhiều lễ tết với những ý nghĩa khác nhau nhưng quan trọng nhất vẫn là tết Nguyên đán - mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Chữ viết của người Tày xuất hiện khá sớm, chữ Nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ Nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng… Chữ Tày - Nùng dựa trên cơ sở chữ cái Latinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa những năm 80, được dùng trong các trường phổ thông cấp 1, vùng có người Tày – Nùng cư trú.
Đối với cư dân Tày, lễ hội là là sinh hoạt văn hóa quan trọng bậc nhất trong đó đặc biệt là Hội Lồng Tồng (Hội xuống đồng) trở thành “đặc sản” sinh hoạt văn hóa cộng đồng của cư dân vùng Việt Bắc cũng như văn hóa Tày. Lễ hội mang đậm những nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, thường được tổ chức ở những đám ruộng to rộng. Trước ngày hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Khách đến đây, dù quen dù lạ đều được đồng bào mời về nhà ăn nghỉ qua đêm chờ dự hội. Trong ngày diễn ra lễ hội, phần lễ và phần hội đều diễn ra trang trọng, vui tươi. Phần lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ðể chuẩn bị lễ ở ngoài đồng, mỗi
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 1
- Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 2
- Thơ Dương Thuấn Tiếp Nối Mạch Nguồn Văn Hóa Tày
- Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 5
- Thái Độ Với Truyền Thống Dân Tộc
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng, có nhiều nhà làm từ vài chục đến một trăm món. Phần hội quan trọng nhất là hội xuống đồng. Một nông dân cày giỏi được giao trọng trách mắc cày vào con trâu mộng, to khỏe để vạch luống cày đầu tiên cho mùa vụ mới. Thầy cúng đi trước làm lễ, luống cày theo sau như nở hoa trên đất hứa hẹn với bà con nông dân một mùa vụ suôn sẻ, bội thu.
Hoạt động vui nhất, thu hút nhiều người tham gia nhất trong lễ hội là hội tung còn. Nếu ở lễ hội này không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hoà. Trong trò chơi này, nam nữ thanh niên thi tung còn cho nhau. Ngoài ra còn có các hoạt động múa sư tử, múa võ, kéo co... Ðặc biệt, đêm về, nam nữ thanh niên thi hát lượn đối đáp suốt canh dài...
Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ ca, múa, nhạc…. Nhiều làn điệu dân ca nổi tiếng như lượn, phong slư, phuối pác, phuối, rọi, vén eng… Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Đồng bào Tày thường lượn trong Hội Lồng Tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối bằng gỗ khá độc đáo. Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con.
Bên cạnh những nét văn hóa trên, nền văn học dân gian Tày còn là kho tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca… tiêu biểu là truyện Quả bầu, Thạch Sanh, Cẩu Khây, Phú Lương Quân, Báo Luông – Sao Cải, Khảm hải (Vượt biển) …
Từ những điều vừa tìm hiểu về đặc điểm văn hóa của dân tộc Tày như trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng: mỗi một dân tộc đều mang trong mình
những dấu ấn văn hóa tạo nên đặc sắc của dân tộc đó. Bản sắc văn hóa hay truyền thống dân tộc là quá trình chọn lọc, tích lũy qua nhiều thế hệ. Nếu một dân tộc không có bản sắc, không tiếp thu truyền thống thì văn hóa dân tộc đó chỉ là hư vô. Do đó việc phát hiện, gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa của từng dân tộc theo hướng ngày càng hiện đại nhưng vẫn giữ được dấu ấn riêng là vấn đề ý nghĩa, mang tính thời sự, cập nhật. Trên đây là một số đặc trưng văn hóa nổi bật của cư dân vùng Việt Bắc và dân tộc Tày. Những đặc trưng văn hóa này sẽ là tiền đề hữu ích giúp chúng tôi triển khai đề tài Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa có cơ sở thực tế và sức thuyết phục hơn.
1.3 Khát quát về văn học Tày
1.3.1 Văn học dân gian Tày
Văn học dân tộc thiểu số ở nước ta tuy hình thành và phát triển muộn nhưng có nhiều đóng góp đáng kể làm phong phú cho kho tàng văn học Việt Nam. Hệ thống văn học dân gian Tày đặc biệt sinh động bởi sự góp mặt của nhiều thể loại như: truyền thuyết, truyện thơ, dân ca, tục ngữ, ca dao. Nội dung truyện cổ Tày thường tập trung giải thích các hiện tượng tự nhiên, những mâu thuẫn trong đời sống con người, cuộc chiến giữa thiện và ác. Truyện ngụ ngôn có rất nhiều tình tiết ly kỳ, chết đi sống lại hoá thân thành con vật, cỏ cây, hoa lá hoặc có cuộc sống sung sướng, thậm chí làm vua, quan… thể hiện khát vọng sống của con nguời. Tục ngữ ca dao đó là những câu phản ánh tâm tư tình cảm, tâm trạng hoặc được đúc kết thành kinh nghiệm, triết lý trong cuộc sống, kinh nghiệm trong sản xuất, đối nhân xử thế, trong dấu tranh xã hội cũng như trong tự nhiên. Đáng chú ý nhất trong văn học dân gian Tày là thể loại truyện thơ và dân ca.
Về thể loại truyện thơ, những tác phẩm truyện thơ nổi tiếng của dân tộc Tày như: Thị Ðan, Quảng Tân - Ngọc Lương, Nàng Kim, Chim sáo, Chiêu
Ðức, Vượt biển... Đây là những truyện được mọi người biết đến và yêu thích nhiều, có ý nghĩa khá quan trọng trong nền văn học dân gian truyền thống và trong đời sống tinh thần của đồng bào. Những tác phẩm này ban đầu đều được lưu truyền bằng phương thức truyền miệng do các nghệ nhân kể trong những dịp lễ, tết hay vào lúc nông nhàn. Có thể cốt truyện nguyên sơ còn rất lỏng lẻo, cùng một tên truyện nhưng lại có nhiều chi tiết khác nhau, sau này được các nho sĩ chép lại, sắp xếp lại cho hoàn chỉnh hơn và tồn tại cho đến ngày nay. Đề tài truyện thơ Tày thường chọn đó là: tình yêu nam nữ, thân phận người phụ nữ và số phận người nghèo khổ. Chủ đề của truyện đều tập trung vào chủ đề quyền sống tự do của con người trong xã hội cũ, lên án chế độ ép gả trong hôn nhân, thể hiện quyền khao khát thay đổi số phận của người nghèo khổ.
Về thể loại dân ca, có thể nói dân ca gắn liền trong đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng của người Tày nhiều và quan trọng nhất so với các thể loại văn học khác. Dân ca Tày có ba dòng đặc trưng: dân ca giao duyên, dân ca nghi lễ và dân ca tín ngưỡng. Dân ca giao duyên phong phú về thể loại như phong slư, lượn, phuối pác (hát đối đáp)…thường được các đôi trai gái sử dụng khi tìm hiểu nhau, do đó làn điệu thường ngân nga nhấn nhá vang xa trong không gian thể hiện tâm trạng, tình cảm, nỗi nhớ nhung. Phong slư là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc sắc của trai gái Tày. Bức thư này viết bằng chữ Nôm Tày trên nền vải sa tanh đỏ. Phong slư nói về cung bậc tình cảm của những người đang yêu. Khi là tiếng nói thủ thỉ tâm tình. Lúc hóa thành dòng thác nhớ nhung tha thiết. Tình yêu nam, nữ thể hiện trong phong slư thường là tình yêu trong xa cách, trắc trở, tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu phong slư thường buồn da diết. Tuy nhiên nó không hề bi lụy kêu than mà vẫn luôn sáng lên những ước mơ lãng mạn, nhân văn.
Hãy tu thân chờ nhau bên ấy Dẫu là không lấy được cũng cam
Yêu nhau để khắp mường được thấy Tiếng thơm sẽ trọn vẹn mai sau
Tới trăm năm khi về âm phủ
Ta rủ nhau về chốn mường hơn
Lượn là một bộ phận thuộc loại hình nghệ thuật dân ca sinh hoạt của người Tày. Lượn có nhiều tiểu loại, ngoài hai loại cơ bản là lượn cọi và lượn slương, người Tày còn có lượn Then, lượn nàng Hai, lượn khắp,… Trong cái nhìn đối sánh với văn hóa dân tộc Kinh, lượn là lối hát giao duyên có thể tương tự như lối hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa tha thiết, lay động lòng người, gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Có thể nói lượn đã trở thành một thực thể trong đời sống tinh thần, một thành phần có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu bộc lộ tình cảm của những người dân Tày yêu thích ca hát. Thông qua lượn mà tiếng hát, lời ca ngân lên mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần không thể thiếu được trong đời sống tinh thần người Tày.
Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam nữ thanh niên Tày, Nùng thường dùng hàng ngày. Đây là lối nói tự do, dịch nôm là “nói chuỗi” thường được diễn ra khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ hội… Đó cũng là một hình thức thể hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi trêu ghẹo tình tứ thể hiện những sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời gian gọt giũa những lời phuối pác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và mềm mại một chất thơ lãng mạn. Phuối pác là nơi thể hiện tình yêu trai gái. Nội dung chính của các bài hát này là lòng yêu lao động, tình yêu trai gái, tùy tài năng và cảm xúc của người hát mà làn điệu bài bản các thể hát đó được biến hoá, sáng tạo không ngừng. Phuối pác là thể dân ca hát đối đáp, có làn
điệu nhưng không ngân nga như lượn, thường được dùng nhiều nhất trong hai trường hợp: khi mới gặp nhau và lúc tạm biệt nhau:
- Chàng ơi, nón cọ hay nón bạc
Nón chàng đội hai người được không Đội được em xin đi cùng đường
- Chớ lừa nhau đặt lờ trên cây Biết bao giờ mới được gặp cá
Dân ca nghi lễ, nổi bật nhất là hình thức quan làng trong các đám cưới. Các quan làng (đại diện nhà trai) thường hát đối đáp với các pả mẻ (đại diện cho nhà gái) phục vụ cho tiến trình nghi thức của một đám cưới. Dân ca tín ngưỡng là lời xướng, giọng ca của những người hành nghề mang tính tâm linh…
Trên đây chúng tôi điểm lại những thể loại chính trong kho tàng văn học dân gian của người Tày. Sự đa dạng về thể loại, đề tài và nội dung phản ánh thể hiện đời sống tinh thần phong phú của đồng bào. Đây cũng là một trong những giá trị văn hóa dân tộc cần được giữ gìn và phát huy qua các thế hệ. Nó sẽ là bản sắc dân tộc, là nền tảng văn hóa, văn học vững chãi cho các nhà văn nhà thơ sau này kế thừa và tiếp nối.
1.3.2 Văn học viết Tày
Do hệ thống chữ Nôm Tày xuất hiện khá sớm so với các dân tộc khác (thế kỷ XV) nên nền văn học viết của người Tày đã sớm phát triển. Mỗi giai đoạn đều có những thành tựu chung, đều ghi dấu ấn độc đáo của từng gương mặt như các tác giả thời trung đại Lê Thế Khanh (1389-1460), Nông Quỳnh Vân (1565-1640), Bế Hữu Cung (1757-1820), Hoàng Ích Viêng (1890-1945) đến các tác giả thời hiện đại như Hoàng Văn Thụ (1906-1944), Nông Quốc Chấn (1923-2002), Nông Minh Châu (1924-1979), Triều Ân, Vi Thị Kim Bình, Ma Trường Nguyên, Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Đoàn Ngọc Minh, Triệu Thị Mai, Đoàn Lư, Dương Thuấn, Vi Thùy Linh…
Thời kì trước Cách mạng tháng Tám 1945, văn học dân tộc thiểu số nói chung cũng như văn học Tày nói riêng thường tồn tại dưới loại hình văn học dân gian. Phải đến sau Cách mạng, văn học các dân tộc thiểu số nói chung mới bắt đầu phát triển với dấu ấn của cá nhân. Đội ngũ sáng tác văn học người Tày được hình thành và phát triển trong số đó có một số tác giả đã trở thành đại thụ hay hiện tượng trong nền văn học Việt Nam. Đầu tiên phải kể đến lớp nhà văn nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, là những người đặt nền móng đầu tiên cho văn học Tày hiện đại như: Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Hoàng Triều Ân.
Trước hết về tác giả Nông Quốc Chấn – người anh cả của nền thơ ca dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Tày nói riêng. Ông được xem là người dân tộc thiểu số đầu tiên: “mang hơi thở của núi rừng Việt Bắc vào thi ca” là “cánh chim đầu đàn của những người làm văn học cách mạng của các dân tộc thiểu số” (Tô Hoài). Đọc Nông Quốc Chấn ta thấy toát lên chất trữ tình đằm thắm, ông viết mộc mạc, giản dị vừa sâu sắc, nhẹ nhàng vừa sôi nổi như giáo sư Vũ Khiên đã từng nhận xét: “Tâm hồn anh từ nhỏ được nuôi dưỡng từ chất thơ của tình người, trong giọng hát lượn then, trong âm thanh đàn tính... thơ anh nhiều lúc hoang sơ như cây rừng, gập ghềnh như sườn núi”. Bên cạnh việc giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, Nông Quốc Chấn luôn tìm tòi và học theo những đổi mới thơ miền xuôi. Ông say mê nghiên cứu, luôn trăn trở với vấn đề sáng tác của văn học dân tộc thiểu số. Từ những năm 60 trở đi, thơ Nông Quốc Chấn có nhiều thay đổi nhưng điều quan trọng là ông ý thức rất rõ rằng bản sắc dân tộc không mâu thuẫn với việc mở rộng đề tài, chủ đề, thủ pháp diễn đạt... Và thực sự Nông Quốc Chấn không chỉ là nhà thơ của đồng bào Tày, Việt Bắc mà thơ ông còn được cả nước đã biết đến và yêu mến.