xanh bay chéo như bướm tắm/ Nước xô vách đá bốn phương rung. Còn tập thơ Tiếng lá rừng gọi đôi của Ma Trường Nguyên đưa người đọc đi qua một loạt địa danh: Hậu Giang, An Giang, Nha Trang, Phan Rang, Sài Gòn, Tây Ninh, Cam Ranh, Tuy Hòa, Qui Nhơn, Huế... rồi Matxcơva, Cung điện Kremli, trường Đại học Lômônôxôp, Công viên Gorky... Những tên riêng ấy không chỉ là sự xác thực mà qua đó thể hiện tâm trạng con người trước hiện thực cuộc sống... Nếu thiếu những địa danh ấy, thơ vơi bớt đi sự sinh động, khỏe khoắn và chân thực của cuộc sống.
Không chỉ tự hào về những cảnh sắc quê hương, địa danh lịch sử với núi non hùng vĩ, tươi đẹp… mà thơ dân tộc Tày còn bộc lộ niềm yêu mến, tự hào bởi đó là miền đất với những con người và phong tục tập quán đặc sắc. Người miền núi nói chung và người Tày nói riêng luôn hướng niềm tin của mình tới thần bản mệnh, trời đất, tổ tiên, thần sông, thần núi… Những nét đẹp của phong tục, tập quán của cuộc sống ngày thường cũng như những sinh hoạt ngày lễ tết đã đi vào trong thơ với những hình ảnh chân thực, phong phú, sinh động, cụ thể; gửi gắm qua đó niềm tự hào về đời sống tinh thần giàu có, ấm áp nghĩa tình của những con người xứ núi. Chính nội dung này đã góp phần quan trọng trong việc làm nên giá trị độc đáo, đặc sắc riêng cho những tác phẩm thơ của họ.
Thuyết tương tác tượng trưng của J.G. Mead nhìn nhận con người là thực thể văn hóa từ lúc nó tự coi mình như đối tượng, biến cái “Tôi” của nó thành đối tượng suy nghĩ. Con người thật sự có thể trở thành đối tượng của chính nó bằng cách tái hiện và chiếm lĩnh mối quan hệ với bản thân của những người khác. E. Fromm trong các tác phẩm của mình nhiều lần sử dụng hình ảnh một cá nhân vị ném vào thế giới, bị mất hút trong đám đông cô độc, khát khao một sự định hướng giá trị để hiểu bản thân mình. Ngay từ khi sinh ra, những nhà thơ đã được sống trong không khí văn hóa của đồng bào mình, lớn lên và đi tới muôn phương nhưng những nét văn hóa ấy đã thấm sâu vào con người, làm thành những nét đặc biệt khác lạ trong tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của họ. Thơ Dương Khâu Luông thường nhắc đến những niềm vui khi con người sẻ chia, gắn bó (Cái bờ ruộng, Của Pang...) nhưng cái khiến con người gắn bó sâu sắc và coi như một cõi thiêng liêng nơi tâm hồn chính bởi tình cảm bền chắc: Đêm nay con ngủ ở nhà mình/ Căn nhà sàn chính tay
cha dựng/ Đắp chăn bông thổ cẩm/ Quay bên nào cũng ấm/ Thở bên nào cũng thơm
(Tiếng quay sa của mẹ).
Thơ của các nhà thơ dân tộc Tày đã phản ánh và lưu giữ những nét đặc sắc trong đời sống văn hóa của dân tộc mình: những hình ảnh của ngày lễ tết, hội hè (có những tục lệ, câu hát, nhạc cụ, trang phục…); những cách ứng xử trong đời sống thường ngày và trong lao động sản xuất; cách ví von, quan niệm về con người… Mỗi nhà thơ như một người kể chuyện, đem những điều “trông thấy” và những điều mình yêu mến kể cho mọi người nghe, cho tất cả đều biết được cuộc sống của dân tộc mình, con người quê mình là thế. Người đọc chẳng những được biết, mà còn như trực tiếp được tham dự vào những sự kiện, hoạt động ấy: hội hè, đàn hát, cõng trâu, xuôi bè, lên nương rẫy, đi làm dâu, thăm mẹ vợ, lượn cọi... rất nhiều những phong tục mang nét văn hóa dân tộc giàu bản sắc: Đã làm con rể trẻ hay già/ Dù ở gần hay ở xa/ Đến tháng giêng nhớ thăm mẹ vợ/ Người đã sinh thành nuôi lớn vợ ta (Dương Thuấn). Nông Minh Châu nói về tục kết tồng (kết nghĩa anh em của người Tày) giữa hai miền đất nước: Cầu Hiền Lương tạm thời chia khúc/ Nước Cửa Tùng bên đục bên trong/ Nhưng Tây Nguyên - Việt Bắc kết tồng/ Voi lớn cùng ngựa hồng sóng bước/ Đàn tơ-rưng hòa nhịp tính then/ Nhà rông cùng nhà sàn một bản (Kết tồng ngày nay).
Hội Lồng tồng là một trong những nét đặc sắc của đời sống tinh thần người Tày. Ở đó bảo lưu được nhiều nét độc đáo trong quan niệm về con người, cuộc sống của đồng bào Tày. Đến nay nó vẫn là một sinh hoạt không thể thiếu đối với người Tày trong những ngày đầu xuân. Nông Thị Ngọc Hòa khắc họa bằng nét vẽ huyền ảo:
Áo chàm thơm lại đi hội Lồng tồng Ngả nghiêng uống cạn ánh trăng Rừng ướt sương mềm lai láng
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 5
- Hai Giai Đoạn Phát Triển Của Thơ Dân Tộc Tày Sau 1945
- Đời Sống Và Tâm Thế Con Người Dân Tộc Tày
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 9
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 10
- Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 11
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
Say buổi săn hươu cái đèn ló trên đầu như sao sáng Nụ cười toả nắng
Sao đầu sàn nhấp nháy thắp từng đôi.
(Nước hồ mãi trong xanh)
Câu hát lượn quê hương là hành trang tinh thần cho con người trong những ngày xa được Ma Phương Tân viết một cách ấn tượng: Câu lượn hát đêm chia tay/ Em bảo cắn đôi mỗi người một nửa/ Nửa để lại em mang lên nương lên rẫy/ Nửa anh gói vào hành trang đi xa/ Câu lượn ấy em bảo đừng chia ba/ Nếu chia ba ở nhà em buồn lắm/ Em nói rồi đôi mắt buồn xa thẳm/ Câu lượn bồi hồi thổn thức trái tim anh (Câu hát chia tay - Ma Phương Tân). Nó gợi nhớ đến hình ảnh lá trầu chia đôi trong thơ Dương Thuấn, còn với Y Phương, khi ngợi ca tiếng lượn quê hương, nhà thơ bộc lộ sự nhận thức cần thiết, thiêng liêng về dân tộc mình: Mỗi khi hát đầm đìa nước mắt/ Thương cho dân tộc mình lao đao bốn mặt... Tiếng hát là bài ca của tổ tiên, của núi rừng xứ sở, là điệu hát tâm hồn quê hương ngàn đời kết tinh: Câu hát này thiêng liêng lắm chứ/ Hát bây giờ còn để hát mai sau…
Với S. Freud, văn hóa ghi nhận cái siêu tôi đứng đối lập với bể chứa cái vô thức, còn Carl Jung quan niệm cái vô thức và cái hữu thức bổ sung cho nhau, cả hai đều là ngọn nguồn của văn hóa. Với C. Jung, ông cho rằng vô thức tập thể là ký ức thị tộc của loài người, là kết quả đời sống thị tộc: vô thức tập thể có trong mọi người, được truyền đạt theo di truyền và là cơ sở của tâm trạng cá nhân và bản sắc văn hóa của nó. C. Jung nhấn mạnh đến vị trí quan trọng của phân tích vấn đề tư duy và văn hóa (trong công trình Tâm lý học và tôn giáo, Tâm lý học và phương Đông). Trong Văn hóa nguyên thủy, E.B. Tylor coi tư duy là yếu tố quan trọng nhất của văn hóa, nhờ đó mà con người nhận thức được thế giới xung quanh. Trong thơ những tác giả thuộc thế hệ thứ hai, ba của thơ dân tộc Tày như Y Phương, Mai Liễu, Ma Trường Nguyên, Lương Định, Triệu Lam Châu, Dương Thuấn... người đọc thấy được những ý thức rất rõ về từng chặng đường mà họ đã đi qua, đã sống, đã yêu thương và trang trải những món nợ với quê hương mình. Những triết lý trong thơ của họ dường như cũng song hành cùng với quá trình ấy, đó là: sự ra đi, sự trải nghiệm và sự trở về. Đầu tiên là hành trình của những cuộc đi, ngày xưa là đi vì đất nước đang còn chiến tranh bom đạn, ngày hòa bình cũng vẫn đi, đi là sống, là kiếm tìm những hiểu biết, đi để khám phá… nhưng dù ở hoàn cảnh nào, tâm thế nào, sự ra đi cũng báo trước một sự trở về. Y Phương với Thất tàng lồm, Mai Liễu với Đầu nguồn mây trắng, Lương Định với Núi và hòn đá lẻ, Ma Trường Nguyên với Tiếng
lá rừng gọi đôi... rồi thời điểm hiện tại, Lửa ấm bản Hon (2012) của Dương Khâu Luông với Tiếng quay sa của mẹ, Con đường nối bản, Người miền núi, Tiếng chim... cũng vẫn nằm trong một mạch cảm xúc. Đó là sự đối lập giữa hai cuộc sống, phố phường thị thành sầm uất và bản làng quê hương bình dị. Qua đó nhấn mạnh nên cái bơ vơ, lạc lõng và sự đơn côi trong tâm hồn con người khi chứng kiến cái vô tình của cuộc sống thành thị. Tạo dựng nên thế đối lập là cái cớ bộc lộ cảm xúc rất khéo của nhà thơ và từ đó, những ý nghĩa, liên tưởng mới được mở ra:
Bây giờ xa rừng ra ở phố Sáng sáng thức dậy ta lại nhớ
Nơi ấy miền rừng đang xanh tiếng chim.
Xu hướng nghiên cứu tính cách dân tộc, ý nghĩa của tính tộc người trong các nền văn hóa mang đến nhiều ý nghĩa cho việc soi chiếu để tìm ra những độc đáo, riêng biệt thể hiện trong các sáng tác nghệ thuật. Những năm 40-50 của thế kỷ trước, tâm lý học về các dân tộc đã chú ý đến khái niệm “tính cách dân tộc” - trong sự tiếp cận không hàm ý đánh giá tốt - xấu mà chỉ hướng đến phân tích những khuôn mẫu hành vi, những nhân cách (không phải thuộc cá nhân) và những phẩm chất gần với tâm thức (mentalité). Đến những năm 70 của thế kỷ XX, các nhà nhân học tâm lý tập trung nghiên cứu căn tính tộc người, bởi đó là “sự cảm nhận thuộc về một truyền thống văn hóa nhất định” [9, tr.266]. Những suy nghĩ đậm chất miền núi của những người con của bản, yêu quê, trân trọng những gì dân tộc mình có, từ những phong tục đến những sinh hoạt đời thường dung dị, Y Phương viết về những con người “thấp bé” của quê hương mình: Đi từ chân lên đỉnh núi, Đi từ mùa khô/ Đến hết mùa mưa nhưng chỉ thấy sự khó nhọc, vất vả. Cải cảm giác tìm mục nát cả hai bàn chân để mong cái ăn, cái mặc nhưng: “Chỉ thấy đá/ Đá lởm chởm/ Đá thu lu/ Đá hun hút/ Chẳng thứ gì ăn được” rất xót xa. Nhưng đó không phải là sự phủ nhận quê hương, làng bản. Nhà thơ gắng tìm ra nguyên nhân của những đói nghèo ngàn đời, của những niềm tin, sự tự hào (dù đôi khi nó là những “thiên lệch” trong nhận thức) trong tâm thức những người con của núi rừng. Khi Y Phương thấm thía “Xa quê hương/ Tất cả đều vô nghĩa” thì Mai Liễu ngậm ngùi tìm lại chính mình giữa bản làng quê hương: La đà cả ba ngày Tết/ Chén xuân nồng đượm nghĩa tình/
Cũng may, nửa đời phiêu dạt/ Vui buồn còn bạn/ Còn quê… Tục uống chung một thứ nước (thường là rượu), ăn chung một sản phẩm là dấu hiệu cụ thể của tình cố kết cộng đồng. Người Nam Bộ uống bằng cách luân lưu chén theo vòng, người Tây Nguyên uống chung một ché rượu cần... còn người Tày rót rượu vào bát/ chén rồi trao đổi cho nhau, tất cả những điều ấy đều để diễn tả một ý niệm bất khả tri giác: chúng ta là một [21, tr.60]. Do đó, con người dù ở đâu, hoàn cảnh nào cũng đều ý thức rõ về sự bền chặt của tình cảm cố kết cộng đồng, nó là một giá trị bất biến và thiêng liêng. Từ những biểu hiện tương tự như thế, có thể thấy sự dung hòa giữa hai xu hướng hiện có trong thế giới hiện đại, một bên là khát vọng đi tới hòa nhập, thống nhất, tạo ra những cộng đồng siêu văn hóa; một bên là khát vọng đi tới sự khác biệt, bảo toàn về văn hóa dưới những hình thức dân tộc riêng của các cộng [9, tr.268].
Không gian trong thơ dân tộc Tày là không gian mang đậm tính văn hóa, nơi đó “ngổn ngang”, tầng tầng lớp lớp những yếu tố văn hóa vùng miền. Cái đặc trưng ấy đi vào thơ một cách tự nhiên, là một chất liệu quen thuộc, giản dị để làm điểm tựa cho cảm xúc bộc lộ. Quan niệm của Dương Thuấn rất mới, rất hiện đại: Em ơi ta ở đâu/ Là bản ta ở đó, Thành phố ở lâu cũng quen như bản dường như cũng chỉ là một sự an ủi, cái đích tìm về như một tất yếu, như bàn chân không thể nào quay ngược, họ vẫn đau đáu một khát khao được trở về. Mặc dù giao tiếp văn hóa như là một đặc tính cố hữu của con người, của các cộng động người, nó xuất hiện cùng với con người và xã hội loài người và tồn tại dưới nhiều sắc thái và trình độ khác nhau (Ngô Đức Thịnh) nhưng không phải ngẫu nhiên mà thơ của các nhà thơ dân tộc Tày bên cạnh những tác phẩm viết về sự hòa nhập văn hóa nơi đồng bằng, thị thành là việc xuất hiện nhiều phong tục tập quán, nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống và nhiều địa danh quê hương mình như: hồ Ba Bể, động Puông, rừng Phja Bjoóc, Phủ Thông, Đèo Giàng, Đèo Gió, sông Năng, làng Hiếu Lễ, sông Hiến, Sa Pa... không chỉ với tư cách là những tên riêng - cái cớ bộc lộ cảm xúc mà mang ý nghĩa của cội nguồn nuôi dưỡng, một chiều sâu nhân bản: đó là những miền đất gắn với tình quê, tình người, có những vùng đất để yêu thương, đến để rồi trân trọng, nhưng nếu đã là quê hương máu thịt, đó sẽ là nơi để gắn bó đến hết cuộc đời, dù chặng đường ra đi có dài dằng dặc, có xa xôi đến bao nhiêu, cuối cuộc hành trình mê mải ấy vẫn phải
có một con đường để trở lại, bởi quê hương là điểm xuất phát ra đi, cũng là điểm tìm về để sống hết mình và để khẳng định giá trị nhân cách con người.
2.2.2. Con người
Những tầng sâu văn hóa về con người, sinh hoạt, thế giới tự nhiên… những giá trị nhân bản về tính cách và tâm hồn dân tộc được thể hiện trong thơ của các nhà thơ dân tộc Tày dù là viết về những gì chân thực, cụ thể, bình thường, giản dị nhất. Hình ảnh những con người trong thơ dân tộc Tày không phải là những con người chung chung, mà là “tổng hòa của những quan hệ xã hội”, có những tính cách và số phận cụ thể. Đó có thể là những con người giản dị với những tình cảm bình dị, với những hoạt động thường ngày, nhưng qua đó, những tư tưởng và tình cảm được thể hiện lại không hề nhỏ bé. Cuộc sống sinh hoạt thường ngày của những người miền núi, sự chịu thương chịu khó như là nét đẹp chung của con người trên khắp mọi miền:
Trai bản đào mương dẫn nước Gái bản thoăn thoắt đưa thoi
(Ngày Va-len-tin - Hữu Tiến)
Sáng tinh mơ ra suối gánh sáu bắng nước Tối nhọ mặt người mới rời ruộng rời nương Tay ai cũng khéo
Chái bếp giậu hoa xếp hàng
Khung cửi đêm đêm rộn ràng thổ cẩm
(Con gái bản tôi - Mai Liễu)
Người nghệ sĩ nào sống và viết cũng chịu sự ràng buộc nhất định của thời đại. Theo GS. Hà Minh Đức: “Một yêu cầu quan trọng để tạo dựng được bức tranh của một thời đại chính là việc miêu tả thành công những số phận của con người”. Trong thơ các nhà thơ dân tộc Tày hình ảnh những con người, những số phận nhỏ bé hiện lên chân thực và cảm động. Họ viết về những người xung quanh bằng một tình cảm thiết tha mà mang nhiều ý nghĩa lớn lao, thậm chí là gửi gắm qua đó những chiều sâu nhân bản. Phạm Văn Vũ nói về số phận con người - những đứa trẻ bất hạnh để thể hiện cái nhìn của người trẻ với những vấn đề của đất nước, ở đây thể hiện ý thức
công dân rất rõ: Các em hát Quốc ca bằng tay/ Miệng chưa một lần cất được từ Tổ quốc/ Chúng chưa hiểu thế nào gọi là Đất nước/ Bàn tay vụng về huơ huơ vô thanh/ Chưa bao giờ gặp bài hát vẹn tròn như thế/ Vậy mà không dám nán xem/ Bỏ chạy/ Bước chân vô thuỷ vô chung/ Nhẩm Quốc ca câu nào cũng vấp/ Mới hay mình tật nguyền... Cũng là con mắt của người trẻ, Hoàng Chiến Thắng trăn trở trước số phận của những đứa trẻ con miền núi thiếu thốn không chỉ vật chất mà còn: Những đứa trẻ đói chữ/ Vào rừng/ Gùi nứa/ Đan phên/ Những đứa trẻ đói chữ/ Cầm dao/ Dựng nhà/ Cứ chiều đến ra đầu con dốc/ Ngóng về xuôi... (Ngôi nhà đầy gió).
Trong suốt hơn nửa thế kỷ phát triển với nhiều thành tựu, thơ dân tộc Tày tạo dựng nhiều hình ảnh đẹp về những con người quê hương mình. Từ người mẹ trong Dọn về làng, những người miền núi chiến đấu kiên cường của thơ Nông Quốc Chấn; cô gái rẻo cao, mười cô gái Bản Phạc trong thơ Nông Minh Châu... đến những người dân ở xứ Cô Sầu trong thơ Từ Ngàn Phố: Đá lở rơi trúng đầu/ Không đau/ Nhưng thịt săn về chia không đều thì tức bạc tóc...; rồi hình ảnh những người đàn ông Tày trở về từ bom đạn trong thơ Y Phương: Mùi trai Tày/ Ném xuống nước không chảy/ Lao vào lửa không cháy/ Khi trở lại quê nhà/ Trái tim chàng như chiếc lá non/ Se sẽ reo... tất cả tạo nên một bản hợp âm về tính cách, tâm hồn con người miền núi. Trong đó, nổi bật lên hai hình tượng mang sức chứa và ý nghĩa lớn lao với nhiều góc độ khai thác, đó là người mẹ vùng cao và người lính áo chàm.
2.2.2.1. Người mẹ vùng cao
Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng vô tận để nhà thơ viết những vần thơ đằm thắm, yêu thương. Một điều quen thuộc và dễ nhận thấy là khi viết về tình cảm gia đình thì người mẹ bao giờ cũng được nhắc đến nhiều nhất. Người mẹ - hình ảnh đầu tiên và cái lẽ cuối cùng của mọi điều cao cả trên thế giới, là điểm tựa, là nơi nương náu, tìm về, là nơi con người hiện hữu thiện tính của mình. Bởi dù con lớn vẫn là con của mẹ, đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn thiên tài H. Balzac viết: “Lòng mẹ là vực sâu mà dưới đáy luôn có sự khoan dung”. Tình mẫu tử thiêng liêng đã trở thành mạch nguồn cảm xúc vô tận cho các thi nhân. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà thơ lớn đều viết hay về mẹ như:
Puskin, Yesenin, Haine... Ở Việt Nam với Tố Hữu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Đỗ Trung Quân…
Nhiều tác giả thơ dân tộc Tày dành những trang thơ hay nhất, sâu lắng nhất cho người mẹ, đầu tiên là bộc lộ tình yêu thương, kính trọng vô bờ bến của mình: Mẹ/ Người bạn đầu tiên của tôi/ Kho báu đầu tiên của tôi (Y Phương). Khi đi xa, hình ảnh người mẹ luôn hiện lên đầu tiên trong nỗi nhớ. Thơ Mai Liễu chủ yếu khai thác người mẹ ở khía cạnh đời thường nhưng từ đó tạo được nhiều liên tưởng sâu sắc. Trong Gọi vía, người mẹ tất tả đi tìm vía cho con: Mẹ vừa gọi vừa khóc/ Khi đi tìm vía cho con…/ Mẹ còm cõi như quê nghèo ven núi/ Sớm tối ra vào góc bếp lui cui… Cái vợt của mẹ đi xúc vía: Cái vợt vừa cũ vừa rách trên tay mẹ ngày ấy/ còn run run mãi trong tôi... là một ám ảnh. Người mẹ hiện lên với những hoạt động thường ngày bình dị nhưng ở đó, sức mạnh của tình yêu thương được khẳng định: Mẹ vẫn thắt vỏ dao ngang bụng lên nương/ Tay cầm chiếc cào uốn bằng con dao mòn vẹt/ Lưng mẹ còng trên lưng đồi đổ nắng…
Cũng là bà mẹ của dân tộc Tày, của những vất vả, lo toan, của những yêu thương… nhưng hình ảnh mà Dương Thuấn khắc hoạ lại là sự giản dị, chất phác trong từng lời ăn tiếng nói, trong cách dạy bảo con cái, cách giáo dục và khuyên răn. Hình ảnh anh sử dụng để diễn tả cũng rất chân thực, gần gũi:
Những bà mẹ xứ mây mỗi sớm bình minh Thơm má con và dặn con rằng
Mắng quan tham Đừng run sợ Trước khi hái quả
Thì hãy chắp hai tay.
Hành trình ra đi và trở về luôn có bóng dáng người mẹ phía sau, ấm áp, tin cậy, sẵn sàng chở che, bao bọc. Những người mẹ được miêu tả hết sức bình dị, mang tính cách của những con người vùng cao, đặc biệt là đức hi sinh cao cả mà xót xa: Đất nước ngày chiến tranh các con mẹ ra đi mãi mãi không về/ Mẹ như cây ngô cuối mùa rũ xuống/ Nỗi buồn dâng tăm tắp bắp ngô đầy (Mùa màng của mẹ - Mai Liễu).