Đời Sống Và Tâm Thế Con Người Dân Tộc Tày


Xiết chặt tay giữ chắc ruộng vườn/ Thành đồng nay sờn chi sóng gió/ Bom đạn đâu thắng nổi trái tim (Hướng về miền Tây Nam bộ - Nông Minh Châu).

Giai đoạn những năm 1964-1975, thơ dân tộc Tày từng bước có sự chuyển biến mạnh hơn. Lúc này, thơ miền xuôi nổi bật Lê Anh Xuân với Dáng đứng Việt Nam, Phạm Tiến Duật với Lửa đèn; tình yêu trong những năm tháng chiến tranh mang đến những xúc cảm đẹp đẽ, thiêng liêng với Cuộc chia ly màu đỏ (Nguyễn Mỹ), Bài thơ về hạnh phúc (Dương Hương Ly)... Một số tác giả dân tộc thiểu số cũng thành công với đề tài chống Mĩ (Nghe tiếng dế bản Đông, Nửa đêm nghe tiếng sấm, Mây khói Trường Sơn... của Vương Anh - Mường; Chiếc khăn, Chở xác máy bay, Chèo thuyền đưa tiễn... của Vương Trung - Thái). Thơ dân tộc Tày góp thêm nhiều tiếng nói hơn thời kỳ trước, Tiếng ca người Việt Bắc, Đèo gió của Nông Quốc Chấn, Cưa khửn đông (Muối lên rừng) của Nông Minh Châu, Đét chang nâư (Nắng ban trưa) của Nông Viết Toại, Nắng ngàn, Bốn mùa hoa… của Triều Ân. Các tác giả chú trọng việc khắc họa cuộc sống của con người miền núi trong một không khí mới. Hoàng Trung Thu nói về người con gái Tày khi hòa nhập với công việc để nói đến cái thay da đổi thịt nhờ cách mạng: Em mặc áo xanh lam/ Đầu vấn khăn giản dị/ Cô gái Tày rừng núi/ Đi vào đời công nhân/ Vào mùa xuân hoa nở. Những nhà thơ “từ quần chúng mà ra” nên thơ họ vừa đậm chất núi rừng mộc mạc, vừa giản dị gần gũi như chính cuộc sống và chiến đấu hàng ngày: Hương chè em theo gió xuân đi/ Hoa chiến thắng nở ngát bay về/ Rạo rực lòng ta hai miền vẫy gọi/ Chiến công dậy biếc những đồi quê (Buổi sớm trên đồi chè - Ma Trường Nguyên, 1972).

Có thể nói, từ 1945 đến 1975, thơ ca dân tộc thiểu số chủ yếu hướng đến nhân dân và đất nước trong đấu tranh cách mạng nhưng chất trữ tình, mộc mạc, hùng tráng xuyên thấm vào nhau tạo nên sức sống và phong cách độc đáo riêng. Hầu hết những tác phẩm của Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Triều Ân, Bế Dôn, Hoàng Trung Thu... giai đoạn này chưa có được hình tượng mạnh mẽ trong cách diễn tả kiểu Chế Lan Viên nói về khát vọng: Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt/ Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm/ Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt/ Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?) nhưng thành công nhất là sự khẳng định một cách dõng dạc tiếng nói ngày một


tự tin hơn khi hòa nhập vào cuộc sống, cuộc chiến đấu và cả công cuộc sáng tạo của văn học nước nhà.

Nếu như giai đoạn 1945-1975, thơ Tày có sự tập trung cao, tất cả hướng về cuộc sống và chiến đấu của người miền núi thì sau 1975, sự phân hóa phức tạp dần bộc lộ rõ. Giai đoạn từ 1975 đến nay thơ dân tộc Tày có những chuyển biến mạnh mẽ không chỉ đội ngũ sáng tác mà còn có những phát triển vượt bậc về chất lượng những tác phẩm. Khi còn chiến tranh, dù thơ viết về những vấn đề riêng tư (tình yêu, tình cảm gia đình...) nhưng dường như chủ quan người viết đang đại diện cho cả một dân tộc. Nhưng sau 1975, các mặt khác nhau trong đời sống hiện thực được soi rọi bằng một cái nhìn mới. Nhận thức trong thơ cũng khác đi. Thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ dân tộc Tày nói riêng bắt đầu có sự bứt phá mạnh trên mọi phương diện. Tuy nhiên, nếu như thơ dân tộc Kinh hướng đến cái tôi cá tính, những thể nghiệm táo bạo và không ngần ngại đi vào những mặt hóc hiểm của đời sống thì thơ dân tộc thiểu số vẫn hướng đến cái chung, nhiều tác phẩm vẫn nặng âm hưởng tâm tình... Từ đó, một yêu cầu bức thiết đặt ra là tìm tòi sáng tạo, đổi mới để thơ các tác giả người dân tộc thiểu số nhanh chóng hòa nhập với mặt bằng thơ chung của cả nước. Các tác giả phải tìm được tiếng nói riêng, nâng cao nhận thức và trình độ để dân khắc phục những hạn chế trong sáng tác. Sự đòi hỏi này dẫn đến việc phân hóa đội ngũ một cách gay gắt khi một số tác giả tỏ ra đuối sức và không thể tiếp tục sáng tác. Hội nghị các nhà văn, nhà thơ sáng tác về đề tài miền núi được tổ chức tại Hà Nội (tháng 3 - 1980) đòi hỏi “tác phẩm hay, tác phẩm đặc sắc, tác phẩm có giá trị”. Thơ dân tộc Tày giai đoạn này bắt đầu khởi sắc hơn, với những tên tuổi nổi bật nhưng phải đến sau 1986, thơ dân tộc Tày mới thực sự có những chuyển biến mạnh mẽ. Các nhà thơ giai đoạn này trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, trong thời kỳ xây dựng hòa bình, cảm hứng sáng tác của họ khác thế hệ đàn anh bởi thế mang đến cho thơ Tày một sự khởi sắc mới, trẻ trung và giàu sức sống hơn. Có thể kể đến Cỏ may, Ở nguồn của Bế Thành Long; Tiếng hát tháng Giêng, Lời chúc, Chín tháng... của Y Phương; Tiếng lá rừng gọi đôi, Câu hát vắt qua vai, Bắc cầu vồng thăm nhau... của Ma Trường Nguyên; Tìm tuổi, Giấc mơ của núi, Đầu nguồn mây trắng... của Mai Liễu; Đi tìm bóng núi, Đi ngược mặt trời, Hát với sông


Năng của Dương Thuấn; Tương tư, Núi và hòn đá lẻ của Lương Định; Trăng sáng trên non, Ngọn lửa rừng của Triệu Lam Châu; Trước gương, Lời của lá, Con đường cho mây đi của Nông Thị Ngọc Hòa... rồi thế hệ trẻ hơn có Dương Khâu Luông với Gọi bò về chuồng, Dám kha cần ngám điếp, Bản mùa cốm, Co nghịu hưa cần, Lửa ấm bản Hon; Tạ Thu Huyền với Đầy vơi; Đinh Thị Mai Lan với Tiếng đàn đêm; Bế Phương Mai với Bài thơ cho cha; Phạm Văn Vũ với Trong nỗi nhớ màu chàm

Điều đặc biệt của thế hệ thứ hai và thứ ba của thơ dân tộc Tày là họ được học hành bài bản hơn, nhiều tác giả thể hiện cá tính sáng tạo rõ rệt từ rất sớm. Từ những sáng tác đầu tay đã khẳng định được ngòi bút vững vàng Y Phương với Tiếng hát tháng Giêng, Lời chúc, Đàn then, Mai Liễu với Suối làng, Mây vẫn bay về núi, Dương Thuấn với Cưỡi ngựa đi săn, Đi tìm bóng núi... Sau 1975 cũng là giai đoạn nhiều thành tựu nổi trội của thơ dân tộc thiểu số hiện đại với nhiều tên tuổi khác như Vương Anh (Mường), Vương Trung (Thái), Lò Ngân Sủn (Giáy), Pờ Sảo Mìn (Pa Dí), Lâm Quý (Cao Lan)... Cái khác của thơ dân tộc Tày giai đoạn này là cảm hứng sáng tạo chuyển biến rõ rệt. Vẫn đề tài lớn ấy, tức là con người và cuộc sống miền núi nhưng được khai thác ở nhiều bình diện khác nhau. Cái đáng kể nhất là sự ý thức ngày một sâu sắc về tinh thần dân tộc, bản lĩnh và vị thế dân tộc mình. Từ chỗ chủ yếu ngợi ca ánh sáng của Đảng, công lao Bác Hồ và sự hồn hậu của người miền núi thì giai đoạn này cảm hứng về chiến tranh vẫn còn ở lại trong khoảng hai mươi năm (mức độ đậm nhạt khác nhau) nhưng những trang viết dành chủ yếu cho quê hương bản làng thân thuộc và những con người vùng cao bình dị. Những khắc họa có phần sâu lắng, trầm tư hơn nhưng cách tạo dựng những bức tranh để miêu tả, kể chuyện vẫn còn (có thể thấy rõ trong thơ Triều Ân).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Thơ dân tộc Tày giai đoạn sau 1975 chủ yếu hướng nội, nhiều bài thơ khai thác nỗi buồn, cô đơn. Thơ không nói hộ tình cảm của muôn người, muôn nhà hay ngợi ca cuộc sống miền núi thay da đổi thịt nhờ cách mạng, nhờ cuộc sống xã hội chủ nghĩa... mà hướng đến cái cá nhân, cái đời tư, với thái độ rõ ràng; có khi đối diện với chính mình để tự vấn: Lãng du góc biển chân trời/ Nửa đời tìm: Vẫn không nơi ẩn mình (Rượu tha hương - Lương Định) hay Mai Liễu lo lắng khi tha hương nơi thị thành: Mấy bận chuyển nhà, thay mái/ Cái vợt ngày xưa cũng chẳng còn/


Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay - 7

Chợt lo/ Hồn vía mình chẳng may bị lạc/ Chốn thị thành/ Ai gọi vía cho tôi?!(Gọi vía); có khi mạnh dạn nhận thức lại một hiện thực tưởng đã định hình, nói về cái thật của cuộc sống không ngần ngại, kể cả đó là những mặt trái, những điều một thời kiêng kị... Y Phương nói về người mẹ có con làm lính ngụy: Hễ đến ngày thương binh liệt sĩ/ Là tôi đóng cửa/ Ngồi trong nhà một mình/ Lặng lẽ lau tấm hình/ Con tôi dường như khóc/ Nước mắt ngấm sang tôi... ướt (Đò trăng). Họ đi vào những đề tài riêng tư, tình yêu trắc trở, những mất mát trong đời sống với nhiều cung bậc khác nhau. Lúc này, không có một khuôn mẫu nào gò ép, chi phối. Kể cả những nhà thơ thuộc giai đoạn trước như Triều Ân, Bế Thành Long... đến những nhà thơ trẻ của giai đoạn hiện tại như Dương Khâu Luông, Nông Thị Tô Hường, Đinh Thị Mai Lan, Hoàng Chiến Thắng, Phạm Văn Vũ... cũng đều có những vần thơ tình ấn tượng. Lúc này, cũng như thơ miền xuôi, tình yêu trở thành một nguồn cảm hứng lớn trong sáng tác và chiếm số lượng tác phẩm đáng kể nhưng các nhà thơ viết về nỗi niềm riêng tư bằng rung động của cái tôi cá nhân chứ không phải cái tôi công dân như trong nhiều bài thơ tình thời kháng chiến.

Nhiều tác giả thơ dân tộc Tày tìm được nguồn cảm hứng khi trở về với quá khứ. Họ tâm tình với thiên nhiên, giao hòa với núi rừng; ngợi ca những con người nhỏ bé mà vĩ đại (người mẹ vùng cao); trân trọng những phong tục tập quán quê hương (chủ yếu là sự hồi tưởng trong xa cách): Tiếng cối nước thì thùm/ Vẫn còn mãi đấy thôi/ Khung cửi thuở nào em dệt/ Câu lượn ngày xưa mẹ hát/ Tiếng cười ai khúc khích trong lùm mơ hoa trắng rơi đầy... (Nước hồ mãi trong xanh - Nông Thị Ngọc Hoà); trở về với cội nguồn với một thái độ biết ơn sâu sắc, hình ảnh quê hương trong lam lũ, đẹp và bình dị... Lúc này, hầu hết các trang thơ đều mất đi cái hào sảng, không còn cái thời kỳ “mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười” (Chế Lan Viên) mà nhiều chiêm nghiệm hơn, sâu lắng hơn. Bởi thế, những hình tượng một thời kỳ vĩ lớn lao dường như cũng được thu nhỏ tầm cỡ (người mẹ, Tổ quốc). Giai đoạn trước, Nông Quốc Chấn khắc họa tư thế Tổ quốc đang đánh Mỹ bằng một hình dung hết sức cụ thể mà không kém phần kỳ vĩ, lớn lao: Ôi Việt Nam/ Như cây nghiến vươn lên trời cao ngất, còn trường ca Đò trăng (2009) của Y Phương, Tổ quốc Việt Nam được tái hiện bằng những gì thân thuộc nhất: Ôi! Nước Việt/ Nước


Việt là lời ru của bà/ Căng ra như võng.../ Nước Việt là tấm lưng gầy của mẹ/ Cõng tôi vào lớp Một.../ Nước Việt/ Là mười ngón tay búp măng/ Đêm Trung thu chị tôi ngồi vò cốm...

Đặc biệt sang giai đoạn những năm đầu thế kỷ XXI, thơ dân tộc Tày có nhiều biến chuyển mạnh mẽ hơn. Thơ của một số tác giả thế hệ thứ hai quay về với quá khứ, kỷ niệm... mà ít hướng đến hiện tại, điều này dễ gây ra một cảm giác là không khí thời đại chưa nhiều. Ở đây có một độ chênh với thơ đương đại nói chung. Tuy nhiên, có nhiều nhà thơ từ những đề tài tưởng cũ lại tìm ra một cách thể hiện mới mẻ. Những tác giả thuộc thế hệ mới thường sẵn sàng nhập cuộc với sự nhiệt thành, sôi nổi: Nông Thị Tô Hường với Tềnh pù - Trên núi, Hằn sâu trên đá tạo được dấu ấn tốt, Vi Thùy Linh trong 10 năm có 6 tập thơ ra mắt bạn đọc. Ngoài ra, Hoàng Chiến Thắng, Phạm Văn Vũ, Ngô Bá Hòa cũng khẳng định được sự mới lạ của mình. Ở đây xuất hiện hai xu hướng - những nhà thơ vừa thể hiện được chất dân tộc vừa mang đến sự mới lạ của bút pháp hiện đại và một số nhà thơ lại hoàn toàn bị “Kinh hóa”. Theo Lâm Tiến, nhiều tác giả phát hiện ra cái thần, cái hồn của dân tộc qua tháp Chàm uy nghi, cổ kính, rêu phong (Inrasara), qua cái hình hài sần sùi và thô tháp (Y Phương), qua cái chiều biên giới lộng lẫy và cao sâu (Lò Ngân Sủn), qua cái phố huyện đơn côi và hoang vắng (Dương Thuấn), qua vẻ đẹp huyền ảo và kiêu sa của Đà Lạt (Triệu Lam Châu)... [95, tr.27]. Các nhà thơ dân tộc Tày lúc này đã có những trưởng thành đáng kể so với những dân tộc thiểu số khác và bắt đầu quá trình đổi mới quyết liệt hơn. Dù sau chiến tranh một thời gian khá dài, những chuyển biến có phần chậm và bình lặng, nhưng sau đổi mới trở đi, cùng với những thay đổi trong đời sống xã hội, cũng tương tự nhịp điệu vận động của văn học miền xuôi, thơ dân tộc Tày khẳng định sự bứt phá.

Nhìn chung, các tác phẩm thơ thời kỳ 1945-1975 hầu hết đều tập trung phản ánh lòng yêu nước, quê hương làng bản của người dân tộc thiểu số; cuộc sống khổ cực của đồng bào miền núi dưới sự áp bức của bọn xâm lăng; đồng thời thể hiện lòng tin vào Đảng, Bác Hồ... Giai đoạn sau 1975, khi đã thống nhất đất nước, vẫn là lòng yêu quê hương tha thiết nhưng họ có ý thức hơn trong việc khẳng định vị thế


dân tộc mình trong thời đại mới, gìn giữ và tự hào về bản sắc nhưng không quên khát vọng được hòa nhập và phát triển trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

2.2. Đời sống và tâm thế con người dân tộc Tày

2.2.1. Quê hương

Thuyết khả năng (posibilizm) coi môi trường tự nhiên là nền tảng thụ động, nó đóng vai trò giới hạn - được thừa nhận như một nhân tố căn bản trong việc giải thích về một hiện tượng văn hóa. Bên cạnh đó là thuyết nhân học sinh thái giải thích ảnh hưởng qua lại giữa môi trường tự nhiên và văn hóa, chủ yếu là nghiên cứu sự thích nghi của xã hội với môi trường xung quanh. Phương pháp tiếp cận này có điểm gặp gỡ với quan niệm về “kiểu kinh tế - văn hóa” như cách của S.P. Tolstov,

M.G. Levin, N.N. Cheboksarov, B.V. Andrianov (Nga); hiện tượng “căn tính tộc người” theo J. Devos, M. Mead, J. Gorder, J. Devereus... (Mỹ). Về tương tác cá nhân - không gian (person - place), R.B. Taylor quan niệm về tác động lãnh thổ, sự gắn bó với một nơi, có thể được định nghĩa như những liên hệ tình cảm giữa cá nhân và môi trường trực tiếp của nó, có vai trò trực tiếp trong sự hình thành tính cách con người, trong thái độ của nó đối với thế giới xung quanh. Nhà tâm lý học người Nga L.S. Vygotsky cho rằng “sự bám rễ của một đứa trẻ bình thường vào nền văn minh là sự gắn kết làm một với các quá trình phát triển hữu cơ của nó”, “sự phát triển văn hóa mang tính chất hết sức độc đáo, vì kẻ mang nó là một cơ thể trẻ em đang lớn lên và đang thay đổi” [9, tr.165].

Mỗi thời đại có những âm vang và bước đi riêng, mỗi vùng đất cũng có những đặc trưng riêng, những độc đáo, khác lạ, mới mẻ. Phong cảnh thiên nhiên nên thơ, núi non kỳ vĩ, suối nguồn mát trong, cuộc sống sinh hoạt của con người nơi núi rừng, những ứng xử với gia đình, bè bạn… tất cả đều được đi vào trong thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số một cách tự nhiên, thân thuộc. Bởi lẽ, “xúc cảm thơ bắt nguồn từ sự đồng cảm sự sống giữa con người và thiên nhiên, ngoại giới, thể hiện trong sự hỗn hợp giữa tình và cảnh, tình và sự” [79, tr.14]. Thơ của các nhà thơ dân tộc Tày bắt kịp với những đổi thay trong cuộc sống người miền núi, do có sự gắn bó sâu nặng, thiết tha, sự yêu thương, trân trọng. Từ miền quê của mình mà họ nhìn xa hơn tới mọi miền Tổ quốc bằng tình cảm chân thành và những suy nghĩ sâu lắng.


Thiên nhiên là mảng đề tài chi phối đến sự thành công của rất nhiều nhà thơ. A. Puskin với hình ảnh của mùa đông nước Nga, những rừng bạch dương đẹp như trong cổ tích; S. Yesenin mang nỗi buồn không dứt với những bài thơ đậm chất Nga về mùa thu, về nỗi buồn…; Tố Hữu với hình ảnh của cảnh sắc quê hương trong chiến tranh cũng như trong hòa bình; Nam Trân với Huế, đẹp và thơ… Những nhà thơ dân tộc thiểu số sống giữa thiên nhiên, hít thở bầu không khí trong lành, nơi mà đi xa sẽ nhớ từng ngọn núi, con suối, mỗi thi nhân sẽ tìm cho mình một điểm tựa để nhớ, để yêu, để về sau những chuyến đi, những thăng trầm khắp những phố phường xa lạ. Khác với những nhà thơ người Kinh viết về miền núi, các nhà thơ dân tộc thiểu số đến với cái chung từ cái riêng, đến với hiện đại từ bản sắc dân tộc mình. Đây là con đường một chiều duy nhất để những nhà thơ như Nông Quốc Chấn, Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu... đến với bạn đọc khắp mọi miền Tổ quốc. Cõi thơ riêng của mỗi nhà thơ đều dành những tình cảm thiết tha cho đất nước, cho bản làng. Đó là hình ảnh của thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ mà thơ mộng. Hình ảnh đất nước trong những năm tháng chiến tranh, bom đạn khốc liệt hiện lên đầy đau thương nhưng cũng rất oai hùng. Đó là Tổ quốc Việt Nam của “máu và hoa”, của những chiến công, của những con người anh dũng, kiên trung. Thiên nhiên cũng như oằn mình than khóc: Núi Tản Viên khóc đỏ sông Hồng/ Rừng Việt Bắc oằn mình nhức nhối (Dương Thuấn). Hình ảnh thiên nhiên trong thơ của các nhà thơ dân tộc Tày nói riêng và thơ dân tộc thiểu số nói chung hầu hết đều khai thác nét đẹp của những núi rừng, những dòng sông, dòng thác đổ nghiêng trời hay đèo cao, núi sâu... Nhưng từ những điểm chung đó, mỗi tác giả lại tìm ra một cách truyền tải mới lạ để thể hiện cách cảm của riêng mình. Thiên nhiên tươi đẹp, mang âm hưởng núi rừng, đến mùa thu cũng có những sắc thái khác lạ:

Mùa thu cho quả lê bớt chát Em hát cho ai ngọt điệu khèn?

Đêm dưới lũng vầng trăng lên muộn Tiếng chày giã cốm nhịp dồn nhanh.

(Mùa thu dưới lũng - Lương Định)


Những miêu tả thiên nhiên giàu xúc cảm thường gắn với hoạt động của con người, nó tạo nên một dấu ấn riêng: Đồi thênh thang gió/ Núi treo nghiêng mặt người/ Sương mềm lay bờ cỏ/ Suối thả chiều rong chơi.../ Về Cao Bằng tôi nhặt/ Đầy một gùi nắng rơi! (Về Cao Bằng - Đinh Thị Mai Lan).

Thiên nhiên trong thơ các nhà thơ dân tộc Tày không thể thiếu núi non kỳ vĩ. Có thể chỉ là sự miêu tả thoáng qua một ngọn núi quê hương nhưng chất chứa rất nhiều ý nghĩa trong thơ Nông Quốc Chấn: Khi nghe gió thổi qua Phja Bjooc/ Em biết mùa thu đã hết rồi. Nông Quốc Chấn tự nhận mình là người mê núi Hoa, bởi thế trong sáng tác của ông dù không thường xuyên khai thác đề tài thiên nhiên nhưng những trang thơ trong thời kỳ kháng chiến cũng như khi hòa bình đều thấp thoáng những hình ảnh tươi đẹp của quê hương Bắc Kạn. Nhiều nhà thơ nói về núi non quê mình để ẩn dụ cho tình yêu dang dở (Bây giờ ngựa về tàu khác/ Một mình anh ôm câu hát/ Đi tìm bóng núi ngày xưa - Dương Thuấn), diễn tả những nỗi đau của con người (Bà mế già ngóng mờ xa bóng núi chờ con/ Dù chiến tranh đã kết thúc bao năm - Dương Khâu Luông)...

Trong thơ Y Phương, con sông Bằng Giang nước xanh biêng biếc, với những ngọn núi cao sừng sững, với những vui buồn của con người vùng cao từ mảnh đất quê hương là một hình ảnh đẹp: Bao nhiêu trời ghé xuống/ Bao nhiêu rừng lội qua/ Bao nhiêu đá chắt ra/ Mới biếc xanh Bằng Giang. Thơ Mai Liễu dành nhiều trang viết về suối (Suối, Suối làng, Suối vắng, Suối Tiên, Nậm Thi, Suối làng trong trẻo…), về sông (Tản mạn sông Lô, Chậm nguồn sông Miện, Bến cũ, Còn đó dòng sông, Đối thoại với dòng sông)... Suối trong thơ Mai Liễu tượng trưng cho sự thanh khiết của cuộc sống con người miền núi. Những đổi thay và thăng trầm của con người cũng gắn liền với suối, nó là nguồn sống, là chiếc nôi nâng đỡ tinh thần con người: Suố i là ng tôi đã bắ t đầ u từ nơi ấ y / Là ngọn nguồn trong trẻo đờ i tôi (Suố i làng). Chính bởi cảm giác “đồng bằng rộng tựa bên nào cũng trống” nên Dương Thuấn thường tìm đến với dòng sông để thể hiện tâm tình. Hai tập thơ Đêm bên sông yên lặng Hát với sông Năng mang đến nhiều cảm xúc về một miền sơn cước đẹp như tranh - miền đất mà Nông Minh Châu đã có những khắc họa sinh động: Thuyền mộc chòng chành đưa khách lạ/ Ba Bể cảnh đây nghiêng mối tình/ Lá

Ngày đăng: 16/01/2023