Khó Khăn, Vướng Mắc Trong Quá Trình Thực Hiện Chính Sách Cải Cách Tổ Chức Bộ Máy Đơn Vị Sự Nghiệp Y Tế Tuyến Huyện Trên Địa Bàn Tỉnh Cao Bằng

kinh phí hoạt động so với năm 2018 giảm khoảng 2.366.483.340,đ/năm do giảm 1 số vị trí việc làm gắn với công việc hỗ trợ, phục vụ không cần thiết và giảm phụ cấp chức vụ lãnh đạo, trong đó: giảm phụ cấp chức vụ: 599.020.500đ (giảm 13 biên chế giám đốc hệ số phụ cấp chức vụ 0,7: 246.655.500,đ/năm; giảm 26 biên chế phó giám đốc hệ số phụ cấp chức vụ 0,5: 352.365.000 đ/năm; giảm biên chế hành chính: 1.767.462.840,đ/năm; giảm 13 chức danh kế toán: 883.731.420,đ; giảm 13 biên chế làm hành chính: 883.731.420,đ) [32]

Thứ năm, giảm diện tích sử dụng đất và trụ sở làm việc các đơn vị sự nghiệp y tế

Sau khi thực hiện cải cách tổ chức bộ máy Trung tâm y tế huyện đa chức năng tiếp tục tiếp nhận quản lý, sử dụng trụ sở làm việc hiện có do Trung tâm y tế, Bệnh viện đa khoa huyện và Trung tâm Dân số - KHHGĐ đang quản lý, sử dụng tại các huyện, Thành phố Cao Bằng để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ y tế cho nhân dân.

Đất và trụ sở làm việc của 11 Phòng khám đa khoa khu vực (PKĐKKV) chuyển giao cho Trạm y tế xã quản lý và sử dụng: PKĐKKV Nguyễn Huệ (huyện Hòa An); PKĐKKV Sóc Hà, Nặm Nhũng, Nà Giàng, Tổng Cọt (huyện Hà Quảng); PKĐKKV Xuân Trường, Cốc Pàng (huyện Bảo Lạc); PKĐKKV Bản Bó (huyện Bảo Lâm); PKĐKKV Hoàng Hải (huyện Quảng Uyên); PKĐKKV Canh Tân (huyện Thạch An); PKĐKKV Thị Hoa (Hạ Lang).

Đất và trụ sở làm việc của 05 Phòng khám đa khoa khu vực chuyển giao lại cho UBND huyện quản lý và sử dụng: PKĐKKV Nà Rị (huyện Hòa An); PKĐKKV Đàm Thủy (huyện Trùng Khánh); PKĐKKV Bằng Ca (huyện Hạ Lang); PKĐKKV Nà Bao (huyện Nguyên Bình); PKĐKKV Quang Trung (Trà Lĩnh).

Thứ sáu, chuyển đổi cơ chế tài chính và bố trí trang thiết bị, phương tiện làm việc hiệu quả

Trung tâm y tế huyện đa chức năng tiếp tục tiếp nhận quản lý, sử dụng nguyên trạng phương tiện (xe ô tô), trang thiết bị làm việc, kinh phí hiện có của

Trung tâm y tế, Bệnh viện đa khoa huyện và Trung tâm Dân số - KHHGĐ theo quy định.

Thực hiện đề án số 12-ĐA/TU ngày 8/11/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc hệ thống hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Cao Bằng theo Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sở Y tế giao dự toán thu năm 2019 dựa theo khả năng tự đảm bảo từ nguồn thu của từng đơn vị thực hiện được trong năm 2018 tự cân đối thu chi, ưu tiên những hoạt động cần thiết và cấp bách và tiến tới đảm bảo lộ trình chuyển đổi cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp từ nhà nước đảm bảo một phần chi thường xuyên sang đơn vị đảm bảo chi thường xuyên theo lộ trình của Đề án số 12-ĐA/TU.

Sau khi sáp nhập, Trung tâm y tế đa chức năng chuyển đổi cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp, từ đơn vị nhà nước đảm bảo chi thường xuyên 100% (Trung tâm y tế cũ, Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình cũ) và đơn vị tự đảm bảo một phần chi thường xuyên (bệnh viện đa khoa) sang đơn vị tự chủ một phần chi thường xuyên. Tỷ lệ tự đảm bảo chi thường xuyên hàng năm là 50%.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp tuyến huyện nhận được sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp từ Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh, sự vào cuộc của Mặt trận tổ quốc các cấp và các đoàn thể, các cơ quan đơn vị liên quan. Quán triệt nghiêm túc các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của đảng về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nhất là chính sách cải cách tổ chức bộ máy; tổ chức tốt việc học tập, xây dựng chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của BCH Trung ương khoá XII gắn với thực hiện Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của BCH Trung ương khóa IX.

Sở Y tế chỉ đạo thống nhất, nghiêm túc quán triệt trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW và các kế hoạch, đề án của Tỉnh ủy, các quyết định, kế hoạch của UBND tỉnh. Tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án, kế hoạch cụ thể về việc sắp xếp, tinh gọn tổ

Thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng - 9

chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện; sáp nhập Trung tâm y tế, Bệnh viện đa khoa, trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thành Trung tâm y tế huyện (đa chức năng) theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn, đảm bảo theo đúng tiến độ, lộ trình, kế hoạch đã đề ra.

Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy y tế được quản lý theo ngành dọc từ tuyến tỉnh xuống huyện và đến xã, vì vậy thuận lợi trong việc chỉ đạo tổ chức, triển khai, thực hiện cải cách tổ chức bộ máy theo Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương.

Công chức, viên chức, người lao động tại các đơn vị được tuyên truyền, phổ biến về yêu cầu, nhiệm vụ của việc sắp xếp, tổ chức lại bộ máy các đơn vị sự nghiệp, qua đó nhận được sự đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy.

2.2.5. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

Thứ nhất, việc sắp xếp tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện theo mô hình TTYT đa chức năng tại Cao Bằng trong giai đoạn chưa có văn bản hướng dẫn của Bộ Y tế về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế đa chức năng tuyến huyện do vậy việc xây dựng quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế đa chức năng tuyến huyện tại Cao Bằng trên cơ sở chỉ sáp nhập nguyên trạng tổ chức khoa phòng tại 3 đơn vị về đơn vị mới, chỉ giảm được đầu mối đơn vị không giảm được nhiều về số lượng khoa, phòng; việc thực hiện chính sách lần đầu do vậy chưa có kinh nghiệm trong triển khai, thực hiện; nội dung tổ chức thực hiện chính sách tại các tỉnh không đồng bộ do vậy việc tham khảo, học tập kinh nghiệp gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai, số lượng đầu mối các đơn vị sự nghiệp lớn, việc bố trí trụ sở làm việc tập trung và đáp ứng quy mô đơn vị y tế đa chức năng chưa đảm bảo quy định do

trụ sở các đơn vị phân tán, thiếu đồng bộ về quy mô, bố trí trang thiết bị y tế và các khoa phòng không đảm bảo công tác liên hoàn do vậy hiệu quả chăm sóc và điều trị cho người bệnh chưa tương xứng với quy mô đơn vị được phê duyệt.

Thứ ba, khó khăn về sắp xếp nhân sự và giải quyết chế độ chính sách đối với cán bộ thuộc đối tượng chịu tác động của chính sách cải cách tổ chức bộ máy Việc bố trí vị trí việc làm và giải quyết chế độ, chính sách đối với các chức

danh lãnh đạo, quản lý sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy gặp nhiều khó khăn.

Thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo Nghị định 108/NĐ-CP chưa đảm bảo mục tiêu, kế hoạch đề ra (chủ yếu chỉ giải quyết chế độ đối với những trường hợp cán bộ công chức, viên chức đã gần đến độ tuổi nghỉ hưu, chưa thực sự loại bỏ được những người hạn chế, yếu kém về năng lực hoặc thiếu trách nhiệm đối với công việc ra khỏi bộ máy).

Thực hiện Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BNV-BYT ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế - Bộ Nội vụ hướng dẫn định mức biên chế trong các cơ sở y tế nhà nước, hiện nay số lượng người làm việc tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Y tế chưa đáp ứng định mức được giao theo thông tư, do đó tình trạng thiếu nhân lực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ sảy ra ở hầu hết các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện. Mặt khác, các đơn vị có chức năng y tế dự phòng và dân số mức độ tự chủ thấp dưới 10% do vậy việc thực hiện ký hợp đồng chuyên môn theo Nghị quyết 102-NQ/CP ngày 03/7/2020 về giải pháp biên chế đối với sự nghiệp giáo dục và y tế khó thực hiện vì không có kinh phí.

Thứ tư, khó khăn trong việc thực hiện thông tư 39/2018/TT-BYT ngày 30/11/2018 quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Nội dung Thông tư không quy định việc đánh giá xếp hạng đối với các đơn vị thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, do vậy việc thanh toán bảo hiểm y tế đối với các đơn vị và trách nhiệm đồng chi trả của người bệnh được Bảo hiểm xã hội tạm tính theo đơn vị hạng IV (tức là ngang trạm y tế xã) do đó các dịch vụ y tế tại Trung tâm y tế đa chức năng tuyến huyện

không đủ kinh phí chi trả cho người lao động cũng như mức thụ hưởng bảo hiểm xã hội của người bệnh cũng giảm xuống gây bức xúc trong nhân dân.

Thứ năm, việc giao dự toán kinh phí được thực hiện từ đầu năm, các đơn vị xây dựng trên cơ sở quy mô giường bệnh, số biên chế làm việc được giao và chỉ tiêu kế hoạch năm do đó khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy dẫn đến hình thành một đơn vị mới, theo đó các thủ tục thanh quyết toán và tất toán tài khoản trong giai đoạn chuyển giao gặp khó khăn do thay đổi con dấu, tài khoản và hợp đồng thanh toán bảo hiểm đã ký trước đó.

Thứ sáu, việc xử lý đất và tài sản gắn liền với đất đối với trụ sở có đề xuất chuyển giao hoặc thu hồi khó thực hiện.

Trong thời gian thực hiện hợp nhất các đơn vị, do Sở Y tế chưa có kinh nghiệm nên trong quá trình tham mưu thực hiện đôi khi còn lúng túng và gặp những vướng mắc nhất định, như: việc vướng mắc xử lý tài khoản tại Kho bạc Nhà nước; vướng mắc trong ký hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế; việc xếp hạng các đơn vị sau khi hợp nhất… Tuy nhiên, tập thể lãnh đạo Sở Y tế đã chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn bản giải quyết kịp thời.

Cấp ủy, lãnh đạo một số đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của các chủ trương, quan điểm về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết ở một số cấp uỷ, cơ quan, đơn vị chưa quyết liệt, công tác kiểm tra, đôn đốc còn hạn chế.

Do số lượng đầu mối đơn vị sự nghiệp lớn, khi thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy, việc bố trí viên chức của các đơn vị thực hiện hợp nhất về tập trung tại một trụ sở nên rất chật trội, vì vậy các đơn vị đều phải cải tạo, sửa chữa trụ sở, bố trí thêm phòng phục vụ cho công tác chuyên môn nên kinh phí thực hiện cải tạo, sửa chữa trụ sở lớn.

Việc bố trí vị trí việc làm và giải quyết chế độ, chính sách đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý và cán bộ thuộc diện sắp xếp khó khăn. Hầu hết lãnh đạo

đơn vị đều đã có kinh nghiệm công tác lâu năm và sắp nghỉ hưu, do vậy việc bố trí chức danh lãnh đạo đối với các vị trí từ trưởng xuống phó cần sự đồng thuận và nhất trí cao. Tuy nhiên, một số cán bộ lãnh đạo do tâm lý sợ bị ảnh hưởng uy tín (do không có năng lực mới sắp xếp ở vị trí thấp hơn) nên chưa đồng thuận với phương án sắp xếp nhân sự theo đề án của Sở Y tế, gây khó khăn trong việc bố trí nhân sự tại Trung tâm y tế mới thành lập. Việc sắp xếp nhân lực TTYT đa chức năng từ các đơn vị trước sáp nhập về đơn vị mới còn khó khăn do cơ cấu chức danh nghề nghiệp y tế đa dạng.

Trong thời gian chuẩn bị sắp xếp tổ chức bộ máy từ năm 2018 và thực hiện các ý kiến chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh tại văn bản số 700-CV/TU ngày 17/4/2018 của Tỉnh ủy về việc tạm dừng công tác bổ nhiệm mới, tuyển dụng, tiếp nhận công chức, viên chức; Văn bản số 458/UBND-NC ngày 06/3/2018 của UBND tỉnh v/v tạm dừng công tác bổ nhiệm, tuyển dụng, tiếp nhận công chức; văn bản số 2029-CV/TU ngày 06/6/2019 của Tỉnh ủy tạm dừng tuyển dụng, bổ nhiệm công chức, viên chức; Sở Y tế đã nghiêm túc chấp hành. Vì vậy, từ năm 2017 đến nay, Sở Y tế còn thiếu 07 biên chế công chức và 267 biên chế sự nghiệp do chưa thực hiện tuyển dụng viên chức y tế, nên các đơn vị thiếu người làm việc, rất khó khăn cho thực hiện nhiệm vụ và bố trí viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng…

Tiểu kết Chương


Trong chương 2, trên cơ sở xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng bao gồm: môi trường thực hiện chính sách như điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, bản thân chính sách, nhận thức của xã hội và người dân, tổ chức bộ máy và cán bộ thực hiện, các nguồn lực thực hiện… Việc xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách sẽ giúp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ thực hiện chính sách có những biện pháp điều chỉnh phù hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.

Trên cơ sở đánh giá, phân tích những kết quả đạt được và hạn chế của mô hình tổ chức trước khi thực hiện chính sách cải cách, luận văn chỉ ra tính tất yếu của việc thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Bên cạnh đó, chương 2 của luận văn đã khảo sát các nội dung thực hiện chính sách và đánh giá kết quả thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Từ việc chỉ ra những kết quả đạt được và khó khăn, vướng mắc sẽ là cơ sở để đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm đạt được các mục tiêu chính sách trong giai đoạn tới đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Chương 3

GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH TỔ CHỨC BỘ MÁY ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP Y TẾ TUYẾN HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG


Trên cơ sở phân tích, đánh giá kết quả thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng luận văn đã chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách tại tỉnh Cao Bằng trong thời gian vừa qua. Để tiếp tục thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp tế tuyến huyện đạt được các mục tiêu chính sách đã đề ra tôi đề xuất các giải pháp và khuyến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tiếp theo, cụ thể:

3.1. Giải pháp thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới

3.1.1 Giải pháp về nhận thức

Tiếp tục nâng cao nhận thức của cán bộ đảng viên, cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của BCH Trung ương khoá XII gắn với thực hiện Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của BCH Trung ương khóa IX về sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về triển khai thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Các đơn vị trực thuộc ngành y tế tăng cường công tác tuyên truyền tới đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, đơn vị để hiểu rò mục đích, yêu cầu của việc thực hiện chính sách nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Nâng cao nhận thức

Xem tất cả 94 trang.

Ngày đăng: 23/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí