Sự Vận Động Của Thơ Ca Hmông Gắn Liền Với Việc Mở Rộng Thế Giới Hình Ảnh, Biểu Tượng


duy hiện đại, thì chúng ta cũng có thể nói rằng: dấu hiệu hiện đại nằm trong đ ặc trưng lưu truyền của thơ ca dân gian Hmông.

Tóm lại, với tất cả những điều đã trình bày ở trên, chúng tôi cho rằng, về phương diện cấu trúc câu thơ trong thơ ca Hmông truyền thống, có hai vấn đề được biểu hiện: một là, xuất phát từ đặc trưng riêng của thể thơ dẫn đến sự biến đổi linh hoạt của cấu trúc câu thơ, và nhịp thơ của các câu cũng khó xác định. (Tất nhiên, với quan niệm xác định nhịp điệu trong câu thơ không phải chỉ để cho thuận tai, dễ đọc, mà phải biểu đạt được nội dung ý nghĩa câu thơ một cách hữu hiệu). Hai là, một số câu thơ có sự vênh lệch về nhịp điệu so với qui luật truyền thống, thì sự tân biến đó mang những dấu hiệu của thơ hiện đại. Ở một chừng mực nào đó, nhận định của chúng tôi có thể còn chưa thấu đáo, song đó là những cố gắng ban đầu của người nghiên cứu, trong công việc không dễ dàng nhằm tìm ra những đặc trưng mang tính bản sắc của thơ Hmông truyền thống, nên có lẽ cũng cần đến một sự thể tất nhất định.

3.2.2. Cấu trúc câu thơ Hmông thời kì hiện đại

Thơ ca dân tộc Hmông thời kì hiện đại ghi nhận sự đóng góp mang dấu ấn cá nhân khá rò của hai gương mặt tiêu biểu, đại diện cho hai khu vực có số người Hmông đông nhất là Việt Bắc và Tây Bắc. Đó là nhà thơ Hùng Đình Quí (Hà Giang) và nhà thơ Mã A Lềnh (Lào Cai). Đây cũng là đại diện cho hai xu hướng thơ Hmông thời kì hiện đại: Xu hướng ảnh hưởng của thơ Hmông truyền thống và xu hướng đổi mới thơ Hmông.

Chịu ảnh hưởng nặng nề của dân ca, thơ ca hiện đại dân tộc Hmông luôn mang hơi ấm của lối trò chuyện giãi bày trực tiếp. Một điều dễ nhận thấy là các nhà thơ dân tộc Hmông thường sử dụng hình thức đối đáp như một nhu cầu được thổ lộ, giãi bày tình cảm. Lối kết cấu đối đáp thuận lợi cho việc bộc lộ tình cảm của các nhân vật trữ tình. Có những bài thơ được diễn đạt bằng hình thức độc thoại nhưng dấu ấn của cách trò chuyện, đối đáp vẫn rất đậm nét:

Em gầu Mông

Người Kinh người Tày cũng khó khăn Những nói đến con đường học

Anh em đi rầm đường

Còn ta cứ giả như không biết gì

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.


Thế định làm người hay làm con ma?

Thơ ca dân tộc Hmông - Từ truyền thống đến hiện đại - 16

(Phải học - Hùng Đình Quí)

Diễn tả tâm sự của chàng trai người Hmông lên đường đi đánh Mỹ hứa hẹn và căn dặn người yêu ở lại, Hùng Đình Quí viết:

Em gầu Mông

Em ở lại vòm trời khoảng đất quê em Hay có chim diều chim cắt kêu

Kêu hót ở trên những lưng núi

Em nhớ đừng để người lừa kẻ dối Mà mất trơn cả vụ mùa làm ăn

(Anh lại về )

Trong thơ ca hiện đại Hmông, tính trần thuật, phô diễn, kể lể đóng vai trò quan trọng trong việc chi phối đến kết cấu, mạch thơ. Điều đó làm cho những bài/câu thơ của một số tác giả người Hmông trở nên dông dài, thiếu đi tính cô đọng, súc tích, nói ít gợi nhiều của thơ hiện đại. Tuy nhiên lối kết cấu dài mang đậm tính tự sự kết hợp với mạch trữ tình dàn trải cũng góp phần thể hiện tính hồn nhiên, bộc trực, thẳng thắn và phúc hậu; thuận lợi cho lối diễn tả bằng những hì nh ảnh so sánh trùng điệp quen thuộc của người miền núi. Bài thơ “Đợi chờ” của Hùng Đình Quí có thể coi là bài thơ tiêu biểu cho dạng kết cấu này, cũng là một trong những bài thơ dài nhất của thơ ca hiện đại Hmông cho đến nay. Bài thơ dài tới 42 khổ thơ, khổ ít nhất 4 câu, khổ dài nhất 26 câu. Cả bài thơ là hình thức đối thoại giữa hai nhân vật trữ tình là “anh trai Mông” (đrâu Mông) và “em gái Mông” (gầu Mông). Bài thơ là tâm sự cuộc đời của nhà thơ với giọng điệu tự sự sâu lắng, với nội dung như là một câu chuyện kể, lời thơ rất gần với dân ca qua việc sử dụng vần điệu, kết cấu. Ngoài ra, còn hàng loạt bài thơ của Hùng Đình Quí mang hình thức độc thoại vốn cũng rất đặc trưng của dân ca Hmông như các bài “Không liên luỵ”, “Phải học”, “Ngu và nhục”, “Nếu sai tôi chết không nhắm mắt”, “Hãy chờ đi đầu xuống đất”… Có thể nói, Hùng Đình Quí là nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của thơ ca truyền thống dân tộc Hmông. Lối kết cấu đối đáp chủ yếu


sử dụng phép đối ý, đối lời, tạo nên sự cân đối giữa các câu thơ, đoạ n thơ khiến cho nội dung bài thơ được nhấn mạnh, được khắc sâu, đạt hiệu quả nghệ thuật.

Thủ pháp trùng điệp tạo lên sự tràn đầy trong mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, làm tăng sức thuyết phục của lí lẽ và tính nhất quán của hình tượng thơ. Sự có mặt của các cụm từ, ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần và mỗi lần lặp lại đều có sự biến đổi đôi chút theo qui luật phù hợp với âm, vần khiến việc lặp lại không bị nhàm chán, đơn điệu, vừa sinh động, vừa khắc hoạ rò ý đồ nghệ thuật tạo nên sắc thái biểu đạt riêng cho mỗi bài thơ.

Cấu trúc câu/khổ thơ theo lối truyền thống vừa là một ưu thế đồng thời vừa là một hạn chế nhất định của thơ Hmông thời kì hiện đại. Sử dụng các hình thức kết cấu của thơ ca truyền thống tạo cho thơ Hmông có đặc điểm riêng biệt, dễ nhận ra, giàu bản sắc. Tuy nhiên, nó cũng sẽ làm cho các bài thơ trở nên đơn điệu, dễ nhàm chán, không bắt kịp được với lối tư duy hiện đại, là một sự kìm hãm trong việc chuyển tải nội dung phản ánh cũng như ý đồ nghệ thuật của các tác giả.

Cuộc sống hiện đại, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc ngày càng phát triển làm cho các dân tộc thiểu số ngày càng tiếp cận và hội nhập với cuộc sống văn minh. Theo đó, ranh giới khu biệt của bản sắc dân tộc bị mờ đi. Thơ hiện đại dân tộc Hmông bước sang một giai đoạn mới. Nếu như trước đây, các tác giả người Hmông, vốn đã rất ít ỏi, chủ yếu sáng tác thơ bằng tiếng dân tộc, thì ở những năm đầu của thế kỷ XXI, một lớp trí thức trẻ người Hmông đã làm thơ, viết văn bằng tiếng phổ thông, bình đẳng chan hoà với các dân tộc anh em khác. Thơ của họ mang sức sống và hơi thở của cuộc sống hiện đại. Cả cách nghĩ, cách cảm, cách biểu hiện cũng đã có sự khác biệt rạch ròi với thơ ca truyền thống.

Bước sang thời kì hiện đại, thơ ca Hmông có xu hướng thay đổi về phương diện cấu trúc câu thơ. những sáng tác của các nhà thơ Hmông thời kì hiện đại phần nào đã chú ý nhiều hơn đến nhịp điệu của các câu thơ. chúng tôi có thể dẫn ra những ví dụ tiêu biểu mà dấu ấn nhịp điệu trong các câu thơ rất rò:

Đồi nương ngô /chín vàng Rộn ràng/ từng hốc đá



hay:

Điệu khèn / vui xóm núi Tiếng đàn môi /giục lòng

(Lên cao nguyên- Giàng Xuân Hồ)


Em là/ cô gái/ Mèo hoa

Anh là/ chàng trai /Tày trắng Trời có mắt/ trời cho ta thấy Đất có lòng/ đất cho ta duyên Trời đất se duyên/ bên sườn núi

(Tình ca ở Chiu Lầu Thí- Giàng Xuân Hồ)

Cách ngắt nhịp theo kiểu chẻ nhỏ các câu thơ, "đánh rơi" từng con chữ, hay lối thơ bậc thang từng xuất hiện trong thơ của Nguyễn Vĩ trong phong trào Thơ Mới mà theo các nhà nghiên cứu phê bình, chịu ảnh hưởng rò rệt của thơ Maiacopxki trước đây, cũng được các tác giả người Hmông như Mã A Lềnh, Mã Ngân Hà sử dụng, cũng không thể nói là không có được những hiệu quả nghệ thuật nhất định:

Đường con đi phía trước

bắt đầu

từ


Có giọt đau nào

trót

sa

cha

(Cha- Mã Ngân Hà)

nơi

ngực

rồi

phải không cha?

(Với cha- Mã A Lềnh)


Các câu thơ 5 chữ, lục bát, 7 hoặc 8 chữ với nhịp điệu rò ràng đã đưa thơ Hmông hướng đến những đặc trưng của thơ hiện đại. Cùng với sự hiện diện của cấu tứ trong mỗi bài thơ, nhịp điệu có vai trò quan trọng để chuyển tải tư tưởng nghệ thuật của các tác giả: Thuở bé thơ/ Cha dạy con cách mài dao cho sắc/cách lấy lửa giữa rừng/cách bám chân vào đất (Với cha- Mã A Lềnh). Nhịp điệu trong câu thơ Hmông thời kì hiện đại phù hợp hơn và là công cụ hữu hiệu để chuyển tải những cung bậc tình cảm, những trạng thái cảm xúc của các tác giả. Nó làm cho mỗi câu thơ đều biểu đạt những dụng ý nghệ thuật nhất định trong chỉnh thể nghệ thuật chung của bài thơ.

Như vậy, quá trình vận động của thơ ca Hmông dưới góc độ cấu trúc câu thơ chính là quá trình hiện đại hóa câu thơ. Về cơ bản, hình như đó là quá trình chuyển hóa từ những câu thơ đơn chức năng (chỉ biểu đạt nội dung) sang những câu thơ đa chức năng (biểu đạt cả nội dung và nghệ thuật). Có thể coi đây vừa là nét đặc trưng mang tính bản sắc, vừa là một thành tựu của thơ ca Hmông trong quá trình vận động và phát triển từ truyền thống đến hiện đại.

3.3. Sự vận động của thơ ca Hmông gắn liền với việc mở rộng thế giới hình ảnh, biểu tượng

3.3.1. Thế giới hình ảnh phong phú, độc đáo

Tư duy trực quan hình ảnh là đặc điểm chung của người miền núi, đúng hơn là đặc điểm chung của người dân tộc thiểu số. Đó là sự tự biểu hiện của khả năng nhận thức và biểu đạt của cá nhân trước một vấn đề trừu tượng đòi hỏi phải diễn đạt bằng ngôn ngữ với mục đích để người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận. Thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ dân tộc Hmông nói riêng, rất giàu hình ảnh. Tư duy trực quan hình ảnh tạo nên sự phong phú, độc đáo cho hình tượng thơ. Lựa chọn những hình ảnh có khả năng diễn tả chính xác nội dung cần biểu hiện làm cho những câu thơ, bài thơ trở nên sinh động và có tính biểu cảm cao, gây được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.


Thơ Hmông truyền thống tràn ngập hình ảnh thông qua lối ví von, so sánh, ẩn dụ. Thế giới hình ảnh trong thơ Hmông cũng chính là thế giới của thiên nhiên, con người và cuộc sống của đồng bào Hmông, vô cùng sinh động, phong phú và giàu bản sắc. Khó có thể liệt kê ra hết những hình ảnh được sử dụng trong thơ ca Hmông, nhưng có một điều khá chắc chắn rằng, đó là những hình ảnh rất riêng phản ánh thế giới vật chất và tâm hồn người Hmông. Nó rất mực giản dị và gần gũi với họ:

Mùa đông dây leo không đâm chồi Mùa xuân dây leo mới mọc

Dây leo mọc không có lối vươn

Vươn luẩn quẩn bên hốc đá [120. tr.45]

Những hình ảnh dây leo, hốc đá vốn dĩ không thơ, lại đi vào dân ca Hmông một cách tự nhiên, và được xuất hiện nhiều, có sức ám ảnh mạnh. Hình như đối với người Hmông, không một hình ảnh nào, dù là bé nhỏ, đơn sơ nhất, mà không gắn bó với họ, xuất hiện trong thơ ca truyền thống nhiều như một phòng trưng bày về thế giới tự nhiên, con người và cuộc sống rất đặc trưng của dân tộc này. Từ hình ảnh trăng, sao, mặt trời rất quen thuộc đến hình ảnh nương, bãi, đá, núi.. phần nào mang tính ước lệ, rồi đến cây kiệu, cây hành, cây sậy, con ốc, con hến, con ve, con ong, con kiến...nghĩa là không có hình ảnh nào mà không đưa được vào thơ:

- Ta quấn xà cạp chẳng gọn xinh như trôn ốc vặn Nên đi tìm vợ chẳng ra phận ra duyên

Ta quấn xà cạp chẳng gọn đẹp như trôn ốc xoáy Nên đi kiếm vợ chẳng thành lứa đôi [120, tr54]

- Gà sống mổ gà thiến

Con ong con đập cánh vào con ong đang lột xác...[120, tr.56]

- Núi cao sinh gốc sậy

Đồng thấp mọc ba trăm thứ cỏ thơm [120, tr.57]

- Chim họa mi ăn quả nho rừng

Mỏ nhuộm màu đỏ tía...[120, tr.57]

Tuy nhiên, những hình ảnh dù là nhỏ nhất, ít quen thuộc nhất, đều không phải được đưa vào thơ Hmông một cách ngẫu nhiên, mà được lựa chọn để biểu thị những dụng ý nghệ thuật nhất định. Nhìn chung, đó đều là những ẩn dụ để diễn tả một cách chí lí, thú vị những điều mà nhà thơ dân gian Hmông muốn biểu đạt. Đôi khi,


người đọc không dễ hiểu ra được ý nghĩa ẩn dụ ở đó nếu không có mã khóa văn hóa của người Hmông. Chẳng hạn:

Ruồi nhà nhích lại ruồi vàng, gà sống nhích lại gà thiến Gà thiến vỗ phành phạch trên mỏm đá

Năm nay, ta lạc bước đến tận quê mình Ngó mình dáng hình đẹp đẽ [120, tr.95]

Ở đoạn thơ trên, có đến hai hình ảnh ẩn dụ dùng để chỉ một đối tượng. Đó là: ruồi nhà- chỉ người con trai, ruồi vàng- chỉ người con gái; gà sống-người con trai, gà thiến- người con gái. Quả thật, nếu không có sự giảng nghĩa của đồng bào thì người đọc (các dân tộc khác) khó mà hiểu được ý nghĩa ẩn dụ này. Nó hoàn toàn không thể cắt nghĩa như trong ẩn dụ của người Việt: Thuyền về có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền ( thuyền chỉ người con trai với nét nghĩa chuyển động, chủ động; bến chỉ người con gái với nét nghĩa chờ đợi, thụ động). Trong trường hợp câu thơ Hmông ở trên, ruồi nhà ruồi vàng, gà trống gà thiến, khó có thể giải nghĩa theo cách như vậy. Câu thơ có chú thích của người biên soạn, ý nói: "con vật nọ làm khổ con vật kia, giống như trong bài hát này người con gái đã lừa dối, làm khổ người con trai" [122, tr.56]. Nếu không viện dẫn chú thích này thì rất khó có thể hiểu được ý nghĩa câu thơ. Chúng tôi nghĩ, có thể đó là những ẩn dụ chỉ được sử dụng trong những ngữ cảnh nhất định.

Trong thơ Hmông hiện đại, cách tư duy trực quan hình ảnh cũng thể hiện rất rò. Diễn tả không khí lao động khẩn trương cho kịp mùa vụ, Giàng A Của dùng hình ảnh “đưa hết cánh tay ra đồng ruộng”. Khuyên mọi người có ý thức bảo vệ rừng, Sùng A Trống chỉ ra tác hại của việc tàn phá rừng đầu nguồn: “Ta đem rừng triệt hại/Có ngày cuộc sống của ta/Như là con mương ruộng đã vỡ/Còn trơ lại cái rãnh khô”. Hùng Đình Quí ca ngợi cuộc sống hạnh phúc một vợ một chồng, lên án hủ tục lấy vợ lẽ, ông khuyên những người Hmông không nên “tranh đục cũ người dùng”, “cướp dao mẻ người liếc”. Tư duy trực quan hình ảnh tạo cho thơ Hmông có sức khái quát cao hơn, gần với nếp cảm, nếp nghĩ, với cách diễn đạt trong ngôn ngữ hàng ngày của người Hmông.

Mặc dù cách tư duy diễn đạt bằng hình ảnh không phải là cách biểu hiện mang tính đặc thù trong ngôn ngữ thơ ca của bất cứ dân tộc nào, nhưng sắc thái để khu


biệt tính đặc trưng trong thơ của từng dân tộc lại rất rò. Nó được biểu hiện bằng cách sử dụng những hình ảnh gần gũi quen thuộc với cuộc sống của từng vùng, từng dân tộc, thậm chí cả đặc điểm tâm lí và cá tính của dân tộc cũng phần nào được bộc lộ qua những hình ảnh đó. Chẳng hạn, những hình ảnh so sánh ví von với “cá” thường được sử dụng như một đặc trưng trong thơ của các dân tộc Mường, Thái do đặc trưng sinh sống ở ven các con sông và việc canh tác lúa nước. Vậy nên, trong thơ Thái hiện đại mới hay xuất hiện những hình ảnh so sánh như: “Cổ tay em tròn đuôi cá” (Sầm Nga Di), “Bàn chân xinh xắn như đuôi cá xoè” (Lương Quy Nhân). Chính từ phong tục tập quán “ăn theo nước” nên người Thái mới có sự gắn bó máu thịt với ruộng đồng, sông suối. Các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Thái nói nhiều đến hình ảnh cá như: “Quí thóc - thóc về. Quí cá - cá lên” hay “Được nắm xôi ngon chớ quên ruộng/Được khúc cá bùi chớ quên suối”. Trong tập hợp những hình ảnh được diễn đạt, biểu hiện theo tư duy của người Hmông, dường như chưa một lần có những sự so sánh ví von liên quan đến cá. Tuy nhiên, lại xuất hiện với một mật độ khá lớn các hình ảnh đặc trưng của người Hmông: Nếu là hoa thì đó là phong lan, hoa mận, hoa đào …, nếu là chim thì đó là hoạ mi, chim ri, chim khướu …, nếu là cây thì đó là cây ngô, cây lanh v.v… Không chỉ hình ảnh mà cách diễn đạt hình ảnh trong thơ Hmông cũng rất độc đáo và giàu bản sắc. Chẳng hạn, nói về tác hại của tệ nạn nghiện rượu và thuốc phiện, các nhà thơ Hmông thường sử dụng cách diễn đạt rất hình ảnh và cũng rất độc đáo: “Người tài chui vào hũ”, “Người giỏi chui vào chai”. Những cơn đói thuốc vật vã làm cho con nghiện như “cầy điên chết bệnh”, “mèo dại chết nắng”, tài sản bị tiêu tan: “dưới nhà còn đất/trên gác chỉ còn bồ hóng” (Hùng Đình Quí), để rồi nhà thơ đưa ra những lời khuyên nhủ chân tình: “Chàng trai muốn áo bông lồng áo lụa/Hay để cái tẩu hơ ngọn đèn?” (Mùa A Lao), “Nay ta đem con đường hút thuốc phiện chặt phăng đi” (Giàng Sùng Tủa). Nhiều hình ảnh thơ là sản phẩm của lối tư duy trực quan mộc mạc đến hồn nhiên, chân thật đến ngộ nghĩnh. Người Hmông vui vẻ, hạnh phúc “sống tưng bừng như một tổ ong mật”, con người trở nên những nhân cách đẹp: “Anh trai Mông tốt bạc/Em gái Mông tốt vàng” (Hùng Đình Quí)…

Xem tất cả 186 trang.

Ngày đăng: 22/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí