- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; tạm đình chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Với những quy định của pháp luật như trên thì VKSND có quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong hoạt động kiểm sát điều tra nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra các vụ án hình sự được tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. Đảm bảo cho việc khởi tố điều tra các vụ án hình sự được tuân theo quy định của pháp luật; bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội và đúng chính sách pháp luật.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Trong hoạt động điều tra, khám phá các vụ án hình sự của cơ quan điều tra, trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, đó là một quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan: Công an - VKS. Đây là những hoạt động rất quan trọng có tính quyết định trong quá trình giải quyết những vụ án hình sự. Chính hoạt động kiểm sát điều tra có vai trò quan trọng như vậy nên pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hiện hành nói riêng đã quy định rất chặt chẽ việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Pháp luật TTHS quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục của các hoạt động điều tra, hoạt động giám sát như: từ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các biện pháp điều tra, các biện pháp ngăn chặn, nhập - tách vụ án, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, thời hiệu điều tra, thời hạn điều tra … Tóm lại, tất cả các bước trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND đều được quy định chặt chẽ theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện hành quy định.
Thứ ba, quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT của VKSND được pháp luật bảo đảm thi hành.
Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật đã ban hành là giai đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật, nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Khi một quyết định áp dụng pháp luật sau khi ban hành mà không được thi hành trên thực tế thì cũng
đồng nghĩa với việc vô hiệu hóa pháp luật, vô hiệu hóa cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến pháp chế XHCN. Các quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự đã được BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003 quy định chặt chẽ và đầy đủ. Việc thực hiện các quyết định áp dụng pháp luật của VKSND sẽ đảm bảo cho quá trình giải quyết những vụ án hình sự được đúng theo quy định của pháp luật; đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Tại Điều 23, khoản 2 BLTTHS năm 2003 quy định:
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này [25, tr 17].
1.2.1.3. Quy trình áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh - 1
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh - 2
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh - 4
- Kiểm Sát Việc Áp Dụng, Thay Thế, Hủy Bỏ Các Biện Pháp Ngăn Chặn
- Nhiệm Vụ Và Quyền Hạn Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Quá Trình Điều Tra Các Vụ Án Hình Sự.
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
- Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên quan đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý do cơ quan điều tra cung cấp:
Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng của áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự. Việc VKS xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và thủ tục tố tụng do cơ quan điều tra tiến hành trong các vụ án hình sự, nhằm xác định tính có căn cứ, qua đó xác định tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội của các đối tượng đã gây ra: có hay không có hành vi phạm tội? Hành vi đó ở mức độ nào? xảy ra ở đâu? Khi nào? Ai là người thực hiện? Công cụ phương tiện phạm tội? Nhân thân? năng lực chịu trách nhiệm hình sự? Trình tự, thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ …
Nếu trước đó cơ quan điều tra thu thập tài liệu chứng cứ không đúng trình tự, thủ tục, không đầy đủ, không toàn diện thì việc xem xét đánh giá (kiểm sát việc tuân theo pháp luật) của VKSND sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn tới sai lầm trong khi ra văn bản áp dụng pháp luật. Do đó phạm vi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND phải được bắt đầu từ khâu tiếp nhận, xử lý tin báo liên quan tới tội phạm.
Theo quy định của pháp luật TTHS thì VKSND tự mình thông qua các nguồn tin báo hoặc từ các tài liệu chứng cứ của cơ quan điều tra gửi tới để xem xét đánh giá sự kiện
pháp lý đã xảy ra: Việc thu thập tài liệu chứng cứ có hợp pháp hay không, hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đến lúc phải xử lý bằng hình sự hay chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là ai, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đối tượng phạm tội có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn … tức là phải xem xét đánh giá các yếu tố cấu thành tội phạm của đối tượng đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong quá trình xem xét đánh giá các tài liệu chứng cứ ban đầu của vụ án hình sự, VKSND cần phải có sự phân công trách nhiệm cụ thể rõ ràng cho cán bộ kiểm sát viên, có sự phối kết hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra. Có thể nói rằng, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo cho việc ra quyết định áp dụng pháp luật của VKS có chất lượng, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được tuân thủ theo quy định của pháp luật.
- Xem xét các quy phạm pháp luật được áp dụng trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự:
Giai đoạn này được thực hiện dựa trên ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết kiến thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật của VKSND. Người có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự cần phải xem xét, đánh giá đầy đủ sự kiện pháp lý đã xảy ra, những công việc đã xử lý của cơ quan điều tra, yêu cầu và đề nghị của cơ quan điều tra đối với việc giải quyết vụ án. Để từ đó xác định nội dung quy phạm được áp dụng, phạm vi vi phạm pháp luật được áp dụng trong hoạt động KSĐT của VKSND. Muốn làm được điều đó, đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải tiến hành giải thích quy phạm pháp luật; phải làm sáng tỏ tư tưởng; nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật đúng thì việc ra quyết định áp dụng pháp luật sẽ rất chính xác. Tóm lại, giai đoạn áp dụng pháp luật này cần đòi hỏi: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp đó; quy phạm pháp luật áp dụng phải là quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật khác; xác định tính chân chính của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng quy phạm này; nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật.
- Ban hành văn bản áp dụng pháp luật:
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là việc VKSND ra các quyết định; quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Đây là giai đoạn trọng tâm, quan trọng nhất của cả quá trình KSĐT các vụ án hình sự. Quyết định, quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn của VKS trong lĩnh vực này được ban hành sau khi đã xem xét, đối chiếu một cách thận trọng, khách quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Vì quyết định của VKSND đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, đến trật tự trị an trên địa bàn và đến quyền tự do thân thể của công dân … nên đòi hỏi người có thẩm quyền ra văn bản áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật tố tụng hiện hành. Đặc biệt văn bản áp dụng pháp luật của VKSND phải có tính khả thi và hiện thực. Tóm lại, để ban hành văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật của VKSND phải hiểu biết về mặt pháp luật, biết tổng hợp, đánh giá các tình tiết vụ án, đồng thời phải có kỹ năng soạn thảo văn bản, đảm bảo chất lượng kỹ thuật văn bản.
- Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật:
Việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật. Khác với các văn bản áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác, văn bản áp dụng pháp luật của VKS trong KSĐT các vụ án hình sự nó là lệnh, quyết định, quyết định không phê chuẩn, quyết định phê chuẩn buộc cơ quan điều tra phải thi hành và tổ chức thực hiện nghiêm minh. Giám sát việc thực hiện các văn bản áp dụng pháp luật của VKS đối với toàn bộ hoạt động điều tra vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ của ngành kiểm sát đã được pháp luật quy định chặt chẽ và đầy đủ. Đó là một trong những đảm bảo quan trọng để quyết định của VKSND được thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
1.2.2. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự
Do tính chất hoạt động của các loại tội phạm đòi hỏi phải được các cơ quan chức năng điều tra khám phá để xử lý. Nhiệm vụ khám phá tội phạm đặt ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phải làm rõ các yếu tố gây án, kẻ gây án, người phạm tội, mức độ lỗi của người phạm tội. Nói cách khác là phải xác định và làm rõ các vấn đề phải chứng minh
trong vụ án hình sự đó. Theo Điều 63 BLTTHS năm 2003 thì những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự:
- Có hành vi phạm tội hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội.
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích hoặc động cơ phạm tội.
- Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo.
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không bắt buộc chứng minh mình vô tội vì thế cơ quan điều tra phải tìm cho được những chứng cứ để làm rõ yêu cầu trên, thì đó chính là điều tra.
Điều tra là một quá trình khám phá tội phạm, là công cụ, phương tiện của quá trình nhận thức tội phạm. Song, không phải bất cứ vụ án hình sự nào xảy ra cũng đều phải khám phá; mà tùy thuộc vào sự phản ánh của yêu cầu trên đây đã thỏa mãn hay chưa? Nếu trong trường hợp kẻ trộm đang đêm cậy phá cửa một gia đình lấy trộm đồ đạc mà bị chủ nhà phát hiện, bắt giữ thì không yêu cầu phải khám phá nữa mà chỉ cần hoàn thiện một số thủ tục điều tra nhất định theo yêu cầu của quy định là đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ.
Còn ngược lại, trong trường hợp kẻ trộm cậy phá cửa nhà, trộm cắp một số đồ đạc trong đêm của một gia đình hay của một cơ quan nào đó, không bắt được kẻ gây án, đến hôm sau mới phát hiện ra vụ việc, thì đây là tình huống phức tạp hơn; cần phải làm rõ các yếu tố trên. Khác với trường hợp trước đó ở trường hợp này cần phải khám phá tội phạm và hoạt động điều tra cần phải phức tạp hơn. Nó cần sử dụng tới tất cả các biện pháp, chiến thuật, thủ thuật điều tra để khám phá tội phạm.
Với cách tiếp cận như vậy, xét về mặt tổng thể dưới góc độ lý luận, thấy rằng: Điều tra tội phạm là một quá trình nhận thức, thông qua các hoạt động thu thập, nghiên cứu, phân tích, đánh giá tài liệu, tình hình phản ánh thực tế khách quan về tội phạm, về
vụ phạm tội, bằng các hình thức, biện pháp, phương tiện chuyên môn của cơ quan chuyên trách để khám phá tội phạm; vạch trần kẻ phạm tội; phòng ngừa ngăn chặn tất cả mọi thiệt hại do tội phạm gây ra. Đây là quá trình thu thập những thông tin, tài liệu, số liệu … phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, việc, hiện tượng hoặc địa bàn. Phục vụ cho công tác nắm, quản lý tình hình về an ninh trật tự.
Điều tra được tiến hành dưới nhiều hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, công khai hoặc bí mật, diện hoặc điểm và được tiến hành bằng hành động điều tra trinh sát, điều tra TTHS.
Điều tra trinh sát là hoạt động nghiệp vụ đặc biệt của lực lượng công an, được tổ chức tiến hành dưới hình thức bí mật, trên cơ sở vận dụng những quy định của pháp luật nhằm thu thập tin tức, tài liệu phản ánh về hoạt động của bọn tội phạm để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và khám phá nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời các tội phạm xảy ra [32, tr. 231].
Điều tra tố tụng hình sự là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa [32, tr. 233].
1.2.3. Khái niệm kiểm sát điều tra
Hoạt động của hệ thống các cơ quan VKS là một trong bốn hệ thống các cơ quan nhà nước được xác lập trong Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của VKSND là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các cơ quan điều tra mà các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân, trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo; điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật TTHS quy định.
KSĐT là một nhiệm vụ quan trọng trong số các nhiệm vụ mà ngành kiểm sát nhân dân phải thực hiện. Đây vừa là một nhiệm vụ đồng thời cũng là chức năng của ngành kiểm sát nhân dân.
Theo Từ điển Luật học thì: Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra của các cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bằng các hoạt động sau:
- Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra.
- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra (Ví dụ, khám chỗ ở, khám người, đồ vật, thư tín …); Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn (ví dụ, bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, hủy bỏ tạm giữ, tạm giam); hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra.
- Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra, thay đổi, xử lý điều tra viên vi phạm pháp luật; nếu hành vi của điều tra viên đó có dấu hiệu phạm tội thì khởi tố về mặt hình sự.
- Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra, quyết định truy tố bị can.
- Kiến nghị tới các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Các hoạt động KSĐT được quy định trong BLTTHS hiện hành. Như vậy, hoạt động KSĐT của VKSND có phạm vi rộng lớn, xuyên suốt từ quá trình phát hiện hành vi phạm tội đến giai đoạn làm rõ hành vi cùng tính chất, mức độ, hậu quả, nhân thân kẻ phạm tội, những thiệt hại đã xảy ra đến việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án nhân dân để xét xử.
1.2.3.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án
Khởi tố vụ án hình sự là một quyết định mang tính pháp lý của cơ quan chức năng bao gồm: Công an, VKS, Tòa án và một số cơ quan chức năng khác được pháp luật trao thẩm quyền. Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ xin đề cập tới việc khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra của ngành công an nhân dân.
Căn cứ theo Điều 100 BLTTHS năm 2003, thì căn cứ khởi tố vụ án được quy định, chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
- Tố giác của công dân.
- Tin báo của các cơ quan, tổ chức.
- Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Cơ quan điều tra, VKS, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.
- Người phạm tội tự thú.
Mọi công dân đều phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm. Tố giác tội phạm là việc người dân báo cho các cơ quan, tổ chức về tội phạm mà họ biết. Tin báo về tội phạm là sự truyền đạt, phản ánh bằng nhiều hình thức khác nhau về tội phạm. Có thể là trực tiếp hoặc phản ánh bằng miệng, bằng đơn thư, bằng điện thoại, bằng thư tín, … Công dân có thể tố giác tội phạm với cơ quan điều tra, VKS, Tòa án hoặc tố giác tội phạm với các cơ quan tổ chức khác; các cơ quan, tổ chức này khi nhận được tin báo tố giác tội phạm phải báo tin ngay cho cơ quan điều tra bằng văn bản. Nhận được tin báo tố giác về tội phạm, theo quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS năm 2003 thì trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn chứng cứ và quyết định khởi tố hay không khởi vụ án hình sự. VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của các cơ quan điều tra đối với việc tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Người phạm tội tự thú là người tự nguyện đến khai báo với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội về hành vi phạm tội của chính mình, mặc dù chưa bị các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện. Việc tự nguyện này có thể là do sự ăn năn hối cải, có thể do tác động của gia đình, người thân nên người phạm tội đã ra tự thú để mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật, tránh cuộc sống lẩn trốn chui lủi, luôn trong tâm trạng hoang mang, lo sợ. Khi người phạm tội đến tự thú, cơ quan và các tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ