Sự Vận Dụng Các Hình Thức Nghệ Thuật Thơ Ca Dân Gian Trong Thơ Dân Tộc Mông Thời Kỳ Hiện Đại


mẹ văn học dân gian phong phú ấy đã làm cho các nhà thơ hiện đại dân tộc Mông có những hạn chế rất lớn trong những sáng tác vốn đã ít ỏi của mình. Thường thấy trong thơ ca hiện đại Mông, dấu ấn truyền thống chỉ còn lại và ảnh hưởng chủ yếu ở cách diễn đạt, ở hình thức thơ, và một số lượng mỏng các bài thơ có nội dung từ các câu tục ngữ, những bài hát dân ca bấy lâu vẫn còn tồn tại và trở nên quen thuộc.

Người Mông có một kho tàng tục ngữ phong phú được hình thành phát triển từ thực tiễn lao động sản xuất. Tục ngữ được nhân dân áp dụng vào đời sống tư duy và sinh hoạt hàng ngày với chức năng quan trọng và cơ bản nhất của nó là truyền bá kinh nghiệm cuộc sống. Tục ngữ có thế mạnh riêng là dồn tụ được một dung lượng ý nghĩa lớn trong một số lượng câu chữ rất nhỏ.

Cũng như lời ăn tiếng nói hàng ngày, tục ngữ đi vào thơ ca hiện đại của dân tộc Mông, qua sáng tác của các tác giả một cách rất giản dị, tự nhiên. Nói về cách đối xử “làm gương” của cha mẹ đối với con cái, tục ngữ có câu:

Mình đối xử với bố mẹ thế nào

Sau này con cái lại đối xử với mình thế ấy [51]

Từ suy nghĩ về những kinh nghiệm truyền đời ấy, Hùng Đình Quí thể hiện niềm yêu kính đối với bố mẹ, như là một cách thức để con cháu soi vào học tập:

Bố mẹ ta, ta quí yêu Sau này ta mới không bị Con cái ta chê chửi.

Mẹ cha mình, mình yêu quí Về sau mình mới không lo Con cái mình chửi theo.

(Ơn bố mẹ)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.


Lẽ đời, “cây có cội, sông có nguồn” là qui luật tất yếu của tự nhiên, yêu quí ông bà, cha mẹ là nương theo qui luật của lẽ tự nhiên ấy. Ca dao người kinh có câu:

Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại từ 1945 đến nay - 9

Con người có tổ có tông

Như cây có cội như sông có nguồn

Hùng Đình Quí mượn qui luật này để nói đến một tình cảm khác, đó là lòng biết ơn đối với Đảng, với Bác Hồ:

Có trời mới có đất

Có Đảng mới có ngô xay cối đá Có đất mới có trời

Có Đảng mới có thóc giã cối chầy

(Ơn Đảng)

Tác giả đã mượn nguyên ý của người Mông trong câu tục ngữ “Có trời mới có đất/Có đất mới có cỏ cây/Có già mới có trẻ/Có trên mới có dưới”.

Nói về sức mạnh của tình đoàn kết, tục ngữ Mông có câu: “Một chân đứng không vững/Một tay vỗ không vang”. Nhà thơ Mùa A Sấu cũng dùng cách nói đó để kêu gọi người Mông đoàn kết, đồng sức đồng lòng để xây dựng một cuộc sống mới no ấm, hạnh phúc:

Ôi! bầu trời ngọn núi cao ơi

Miền núi cao một tay vỗ không kêu

Nhưng ta biết nói họ biết làm, thì có ngày họ đến tìm và nhiều tay vỗ kêu

Một chân đứng lên thì không vững

Nhưng ta biết nói họ biết nghe thì có ngày sẽ ào ào đến trên một con đường

(Núi mọc trong mặt gương)


Những bài hát dân ca Mông, đặc biệt là dân ca trữ tình, vốn rất lãng mạn và tình tứ, có nhiều câu đạt tới đỉnh cao cả về nội dung biểu hiện và hình thức nghệ thuật. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng đánh giá rất cao những bài hát - bài thơ dân gian ấy của người Mông: “Có thể nằm không hổ thẹn trong những tuyển tập thơ hay của thế giới”, chẳng hạn như bài ca sau đây:

Gió về gió thổi lá cây bay lả lướt bên khe Nếu ta là hạt mưa hạt sương

Ta xin tan trên bàn tay nàng

Gió về gió thổi lá cây lật ngả nghiêng bên suối Nếu ta là hạt mưa hạt sương

Ta xin tan dưới bàn chân nàng. [50]

Chắt lọc và phát triển từ chất trữ tình ấy của lời ca dân gian, Mã A Lềnh đã viết lên những câu thơ không kém phần tình tứ và lãng mạn:

Nếu ta là bông tuyết trắng

Ta xin tan dưới bàn chân nàng Là chàng trai rừng núi

Ta xin tan trên thân thể nàng

Thơ ca hiện đại dân tộc Mông, có những câu thơ mang đậm chất dân ca, cho dù nhà thơ không sử dụng cụ thể một câu tục ngữ, ca dao nào, cũng không phải được thể hiện theo hình thức những làn điệu quen thuộc của dân ca Mông. Ấy là khi trong tâm hồn nhà thơ, chất truyền thống và hiện đại đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn, thậm chí đã chan hoà vào nhau để có những câu thơ thật đặc sắc:

Em là cô gái Mèo hoa

Anh là chàng trai Tày trắng Trời có mắt, trời cho ta thấy


Đất có lòng, đất cho ta duyên Trời đất xe duyên trên sườn núi

(Tình ca ở Chiu Lầu Thí - Giàng Xuân Hồ)

Cũng có khi nhà thơ mượn nguyên hình thức diễn đạt của dân ca như là một cách viết lời cho những làn điệu dân ca truyền thống của người Mông. Lối thơ mô phỏng dân ca này tạo cho câu thơ, bài thơ một sự êm ái, nhẹ nhàng và có giai điệu:

Vòm trời trên mây quang Vòm trời dưới sao sáng

Mùa xuân này ta còn gặp nhau

Cuộc hát giao duyên này ta còn có bạn

Khéo rồi mai mình đi đường mình ta đi đường ta mau Đôi ta chẳng còn được lấy tay che mắt nhìn nhau

(Hội Xuân - Mã A Lềnh)

Những bài ca dân gian Mông có cái hay, cái độc đáo quyến rũ ở chỗ, nó thể hiện tâm hồn người Mông, tâm hồn mê say tiếng hát và biết quí trọng tiếng hát của mình:

Bài hát hết lại không hết Hết như hết một nửa

Hết như hết một mình

Hay:


Lời hát biết hát không biết kết thúc

Như khóm ngải tàn lại tiếp khóm xanh Bài hát biết nói, không biết kết thúc

Kết thúc như hoa đào nở trên núi cao [50]

Thơ ca hiện đại dân tộc Mông cũng vậy, mỗi bài thơ là một cung bậc trữ tình, một giai điệu tình cảm, khi say đắm đam mê, lúc suy tư trầm lắng nhưng


không có nốt nhạc cuối cùng. Nốt nhạc cuối cùng sẽ vang xa và ngân nga trong lòng người đọc:

Lời hát sắp hết lời hát lại về

Ta đang chung lòng dù mai có xa nhau cũng không quên lời thề Lời hát sắp hết lời hát đến ngay

Ta đã kết thân với nhau dù mai có chia tay ta cũng

nhớ cuộc hát giáo duyên này.

(Hội xuân - Mã A Lềnh)

Sự tiếp thu, ảnh hưởng và phát triển sáng tạo mạch thơ ca dân gian truyền thống tạo cho thơ hiện đại dân tộc Mông có một sắc thái riêng và cả một sự phong phú, thống nhất. Thống nhất ở âm hưởng, ở hình thức thơ, ở sự vận dụng vốn văn hoá, văn học truyền thống; phong phú ở sự đa dạng của những nét riêng mang dấu ấn cá nhân của từng tác giả. Sự thống nhất và phong phú ấy góp phần tạo nên và hình thành những cá tính thơ, cá tính của từng tác giả và cá tính của cả tâm hồn dân tộc Mông được soi chiếu qua thơ ca.

3.1.2. Sự vận dụng các hình thức nghệ thuật thơ ca dân gian trong thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại

Chịu ảnh hưởng nặng nề của dân ca, thơ ca hiện đại dân tộc Mông luôn mang hơi ấm của lối trò chuyện giãi bày trực tiếp. Một điều dễ nhận thấy là các nhà thơ dân tộc Mông thường sử dụng hình thức đối đáp như một nhu cầu được thổ lộ, giãi bày tình cảm. Lối kết cấu đối đáp thuận lợi cho việc bộc lộ tình cảm của các nhân vật trữ tình. Có những bài thơ được diễn đạt bằng hình thức độc thoại nhưng dấu ấn của cách trò chuyện, đối đáp vẫn rất đậm nét:

Em gầu Mông

Người Kinh người Tày cũng khó khăn Những nói đến con đường học

Anh em đi rầm đường


Còn ta cứ giả như không biết gì

Thế định làm người hay làm con ma?

(Phải học - Hùng Đình Quí)

Diễn tả tâm sự của chàng trai người Mông lên đường đi đánh Mỹ hứa hẹn và căn dặn người yêu ở lại, Hùng Đình Quí viết:

Em gầu Mông

Em ở lại vòm trời khoảng đất quê em Hay có chim diều chim cắt kêu

Kêu hót ở trên những lưng núi Em nhớ đừng để người lừa kẻ dối Mà mất trơn cả vụ mùa làm ăn

(Anh lại về)

Trong thơ ca hiện đại Mông, tính trần thuật, phô diễn, kể lể đóng vai trò quan trọng trong việc chi phối đến kết cấu, mạch thơ. Điều đó làm cho những bài thơ của dân tộc Mông trở nên dông dài, thiếu đi tính cô đọng, súc tích, nói ít gợi nhiều của thơ hiện đại. Tuy nhiên lối kết cấu dài mang đậm tính tự sự kết hợp với mạch trữ tình dàn trải cũng góp phần thể hiện tính hồn nhiên, bộc trực, thẳng thắn và phúc hậu; thuận lợi cho lối diễn tả bằng những hình ảnh so sánh trùng điệp quen thuộc của người miền núi. Bài thơ “Đợi chờ” của Hùng Đình Quí có thể coi là bài thơ tiêu biểu cho dạng kết cấu này, cũng là một trong những bài thơ dài nhất của thơ ca hiện đại Mông cho đến nay. Bài thơ dài tới 42 khổ thơ, khổ ít nhất 4 câu, khổ dài nhất 26 câu. Cả bài thơ là hình thức đối thoại giữa hai nhân vật trữ tình là “anh trai Mông” (đrâu Mông) và “em gái Mông” (gầu Mông). Bài thơ là tâm sự cuộc đời của nhà thơ với giọng điệu tự sự sâu lắng, với nội dung như là một câu chuyện kể, lời thơ rất gần với dân ca qua việc sử dụng vần điệu, kết cấu. Ngoài ra, còn hàng loạt bài thơ của


Hùng Đình Quí mang hình thức độc thoại vốn cũng rất đặc trưng của dân ca Mông như các bài “Không liên luỵ”, “Phải học”, “Ngu và nhục”, “Nếu sai tôi chết không nhắm mắt”, “Hãy chờ đi đầu xuống đất”… Có thể nói, Hùng Đình Quí là nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của thơ ca truyền thống dân tộc Mông. Lối kết cấu đối đáp chủ yếu sử dụng phép đối ý, đối lời, tạo nên sự cân đối giữa các câu thơ, đoạn thơ khiến cho nội dung bài thơ được nhấn mạnh, được khắc sâu, đạt hiệu quả nghệ thuật.

Kết cấu trùng điệp là một hình thức nghệ thuật quen thuộc trong thơ ca, kể cả thơ ca của dân tộc Kinh. Sự lặp lại nhiều lần một chi tiết, hình ảnh, đôi khi cả câu thơ khiến cho việc khắc hoạ diện mạo, nội tâm và hành động của nhân vật trữ tình trở nên rõ rệt và ấn tượng hơn. Trong thơ hiện đại của các nhà thơ dân tộc Kinh, lối kết cấu trùng điệp cũng khá phổ biến. Nguyễn Đình Thi diễn tả nỗi nhớ của người chiến sĩ “Ngôi sao nhớ ai mà lấp lánh …/Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh”; Phạm Tiến Duật khắc hoạ hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra chiến trường, mặc cho “Không có kính/Ừ thì có bụi”, “Không có kính/Ừ thì ướt áo”; Bằng Việt chiêm nghiệm về hình tượng bếp lửa đeo đẳng trong ký ức như dấu ấn về tình cảm thương yêu sâu đậm và thiêng liêng của người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

(Bếp lửa)

Tuy nhiên, lối kết cấu trùng điệp là một hình thức nghệ thuật rất đặc trưng và phổ biến trong thơ ca hiện đại dân tộc Mông, xuất hiện trong sáng tác của các tác giả với một mức độ đậm đặc. Đây cũng chính là sự kế thừa


truyền thống bởi kết cấu trùng điệp là hình thức phổ biến nhất trong thơ ca dân gian dân tộc Mông:

Bố mẹ sinh ra em nổi tiếng đẹp xinh

Ta thường lấy núi đồi làm thang bắc lên thăm Bố mẹ sinh ra em lừng danh tươi giòn

Ta thường lấy núi đồi làm thang bắc lên hỏi [63]

Các nhà thơ hiện đại đã tiếp thu và chiếm lĩnh hình thức kết cấu đặc trưng này như là một cách biểu hiện riêng cho thơ ca của dân tộc Mông. Những bài thơ với nội dung phản ánh khác nhau nhưng có chung một hình thức kết cấu. Sùng Nhìa Tú tự hào vì sự đổi đời của người Mông từ khi có Bác Hồ:

Mặt trời chiếu tia nắng xuống đồi dốc

Ta có Bác Hồ - Bác Hồ bảo người Mông ta cách làm ăn Mặt trời chiếu tia nắng xuống đồi bậc thang

Ta có Bác Hồ - Bác Hồ bảo người Mông ta cách làm mặc

(Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ)

Hùng Đình Quí diễn tả tâm trạng hân hoan vui của chàng trai người Mông “Qua dốc Cán Tỷ” trên con đường mới mở nhờ chính sách của Đảng để miền núi tiến kịp miền xuôi:

Con đường, mày bò qua đèo qua núi miết Nhưng thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh đây Vượt trăm lần vẫn chưa thấy chán

Con đường, mày bò qua đèo qua núi hoài Nhưng thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh đây Vượt trăm lần vẫn chưa thấy chê

(Qua dốc Cán Tỷ)

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 10/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí