Tạo Cung Và Cơ Sở Vật Chất, Kỹ Thuật Cho Thị Trường Du Lịch


lịch, các nguồn lực phát triển du lịch, TTDL; xác định quan điểm, mục tiêu, tính chất, dự báo các chi tiêu, luận chứng, các phương án phát triển du lịch; tổ chức không gian du lịch, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch; xác định danh mục các khu vực, các dự án ưu tiên đầu tư, nhu cầu sử dụng đất, vốn đầu tư và nguồn nhân lực cho kinh doanh du lịch; đánh giá tác động môi trường, các biện pháp bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường đề xuất cơ chế, chính sách, giải pháp quản lý để phát triển TTDL theo quy hoạch.

Xây dựng và thực thi quy hoạch phát triển TTDL. Đó là bản đề án tổng thể về mục tiêu của phát triển TTDL cùng các biện pháp, chính sách thực thi nhằm thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển TTDL trong từng thời gian nhất định, thường kế hoạch dài hạn là 5 năm hoặc kế hoạch ngắn hạn là 1 năm. Nếu chiến lược phát triển TTDL được xây dựng cho phương pháp cân đối dự báo, tức là dự báo có cơ sở khoa học nguồn lực và khả năng cân đối cung - cầu trên thị trường, thì kế hoạch phát triển TTDL được xây dựng theo phương pháp cân đối hiện thực các nguồn lực, khả năng đã nắm và có thể huy động được trong định kỳ thời gian.

2.2.1.2. Tạo cung và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho thị trường du lịch

Sản phẩm du lịch bao gồm tất cả hàng hóa và dịch vụ cần thiết làm thỏa mãn nhu cầu chuyến đi du lịch của khách. Nó là tổng hợp những gì khách mua, hưởng thụ, thực hiện gắn với điểm du lịch. Đứng về phía du khách, sản phẩm du lịch bao gồm toàn bộ dịch vụ phục vụ cho chuyến đi, tính từ khi ra khỏi chỗ ở hàng ngày đến khi trở về nhà của mình. Những sản phẩm đáp nhu nhu cầu của khách trong một thời gian xác định ở các khu du lịch, hay một chuyến du lịch, một cuộc dự hội nghị là sản phẩm du lịch trọn gói, tổng hợp. Một phòng khách sạn mà khách sử dụng là một sản phẩm du lịch riêng lẻ. Sản phẩm du lịch được tồn tại cả ở dạng hữu hình và cả những sản phẩm vô hình. Chúng không chỉ được tạo ra từ các ngành sản xuất công nghiệp và nông nghiệp mà còn được tạo ra ở các ngành dịch vụ. Khác với các sản phẩm trên các thị trường khác, phần lớn nguồn cung về sản phẩm cho TTDL là văn hóa, các lễ hội, di tích lịch sử, các tài nguyên thiên nhiên và các công trình xây dựng, v.v... Những sản phẩm này


không phải được con người trực tiếp sản xuất ra để đem bán, mà là sự ban tặng của tự nhiên cho con người hoặc được các thế hệ trước kiến tạo không phải vì mục đích kinh doanh du lịch. Để trở thành hàng hóa du lịch, các thứ này phải được bảo tồn, tôn tạo, giới thiệu, kích thích nhu cầu.

Do sản phẩm du lịch thường gắn liền với nguồn tài nguyên du lịch, nên nó khác với các sản phẩm khác là không thể di chuyển được từ địa điểm này sang địa điểm khác. Đặc điểm này bắt buộc người mua phải đến tận nơi có sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu của mình.

Sản phẩm du lịch còn có điểm riêng biệt so với các hàng hóa thông thường ở chỗ khi nó được đem bán cho khách chỉ là bán công dụng của sản phẩm chứ không bán việc sở hữu sản phẩm. Việc sử dụng nó còn có thể gây ra phản ứng lan truyền từ du khách này sang du khách khác, thì giá trị của nó có thể được tăng lên theo các lần sử dụng của du khách.

Tính thời vụ của sản phẩm du lịch không phải bắt nguồn từ bản thân sản phẩm, mà thông thường lại từ nhu cầu của du khách. Tính thời vụ của sản phẩm du lịch còn thể hiện rõ ở các ngày nghỉ trong tuần, những ngày nghỉ lễ, các kỳ nghỉ hè của học sinh, sinh viên. Tính thời vụ tuy có sự khác biệt giữa các quốc gia, các khu vực nhưng vẫn là đặc điểm nổi bật của hoạt động du lịch mà những nhà kinh doanh phải nắm được. Nguồn lực và tiềm năng cho phát triển du lịch là một nội dung không thể thiếu được trong kinh doanh du lịch, nó là điều kiện và yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm du lịch cung ứng trên thị trường. Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu như: tài nguyên du lịch, các kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển du lịch.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.

Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa, công trình do lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được dùng để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch,v.v... Cảnh quan thiên nhiên bao gồm: địa hình, địa chất, địa mạo, tài nguyên khí hậu, nước, sinh vật và các cảnh quan du lịch tự nhiên. Di tích lịch sử, văn hóa là các công trình do lao động sáng tạo của con người tạo ra, bao gồm: văn hóa vật thể như: di sản


Thị trường du lịch ở tỉnh Luông Pra Băng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - 8

văn hóa thế giới, các di tích lịch sử văn hóa, các công trình đương đại, các vật kỷ niệm, cổ vật và văn hóa phi vật thể như: các di sản văn hóa truyền miệng và phi vật thể của nhân loại,v.v...

Các cơ sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển du lịch là một nội dung quan trọng cho phát triển TTDL. Nó bao gồm các điều kiện phục vụ cho việc tổ chức các chuyến đi du lịch, các điểm du lịch, hệ thống giao thông, cơ sở lưu trú và ăn uống, cơ sở vui chơi giải trí và các phương tiện vận chuyển khách du lịch,... Các cơ sở vật chất - kỹ thuật này càng thuận tiện, hiện đại thì càng có điều kiện nâng cao năng lực phục vụ du khách, tăng sức cạnh tranh trong việc thu hút khách, mở rộng TTDL. Chính vì thế, trong thời gian tới mặc dù phải đối phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng không ít quốc gia vẫn ưu tiên đầu tư tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển TTDL tăng cường thu hút du khách trong nước và quốc tế.

2.2.1.3. Liên kết trong nước và quốc tế cho phát triển thị trường du lịch

Liên kết kinh tế trong phát triển TTDL là hoạt động nhằm tối ưu hóa và tăng cường tiềm lực cho hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch trong việc thu hút khách trong nước và quốc tế. Nó có thể thực hiện dưới hình thức liên kết các ngành kinh tế khác nhau, có liên quan với nhau cho phát triển TTDL và cũng có thể là liên kết giữa các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước với nhau hoặc giữa các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước và nước ngoài cung hoạt động trên một TTDL.

Liên kết trong phát triển du lịch cũng có thể là sự phối hợp giữa các cơ sở du lịch, điểm du lịch, đơn vị du lịch của các địa phương, vùng và giữa các nước trong phát triển mạng lưới du lịch, xây dựng các tuyến du lịch liên vùng, liên quốc gia.

Thực chất của các liên kết này là thực hiện các quan hệ phân công, hợp tác, phân bổ lực lượng sản xuất giữa các doanh nghiệp, sao cho các quan hệ đó được thiết lập một cách tối ưu, ràng buộc trách nhiệm với nhau bằng các hợp đồng kinh tế cụ thể, công khai, minh bạch nhằm phát triển sản phẩm du lịch, mở rộng thị trường. Đây còn là hình thức thúc đẩy các quan hệ lợi ích, tức là các


quan hệ trao đổi, thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau, quan hệ phân chia lợi nhuận do kết quả và chất lượng của hoạt động du lịch mang lại.

Với nội dung này, hoạt động TTDL của một địa phương hay một quốc gia muốn phát triển, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, thành phần kinh tế, tổ chức kinh doanh du lịch và các địa phương trong việc tuyên truyền, quảng bá, xây dựng tiềm lực và phát triển sản phẩm du lịch, trong việc mở rộng thị trường dịch vụ du lịch không chỉ ở địa phương, khu vực mà còn vươn ra thị trường mới, kể cả TTDL quốc tế.

2.2.1.4. Lựa chọn cơ chế vận hành thị trường du lịch

Cũng như các thị trường khác, cơ chế vận hành TTDL là một "guồng máy" điều chỉnh hoạt động của các chủ thể tham gia TTDL. Nó có thể là cơ chế thị trường hay còn gọi là "bàn tay vô hình", "cơ chế tự điều tiết", cũng có thể là sự điều tiết và quản lý của nhà nước hay còn gọi là "bàn tay hữu hình", đối với TTDL, và cũng có thể được kết hợp cả hai loại cơ chế này, tức là cơ chế "Hai bàn tay". Cơ chế vận hành TTDL là một nội dung quan trọng trong việc lựa chọn môi trường thuận lợi cho các chủ thể tham gia TTDL.

Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết, tự vận hành thị trường. Nó tự phát sinh ra và tự phát điều chỉnh hoạt động của các chủ thể thị trường. Cơ chế này có tác động rất lớn đối với các chủ thể thị trường mà trước hết là đối với các tổ chức kinh doanh du lịch. Nó buộc chủ doanh nghiệp phải tích cực hơn, năng động và sáng tạo hơn trong hoạt động cung ứng dịch vụ du lịch. Nó làm cho các nguồn tài nguyên du lịch được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn, cung ứng sản phẩm tốt hơn, giá cả hợp lý hơn. Cơ chế này cũng loại bỏ những nhà kinh doanh kém cỏi, thiếu năng lực và giữ lại những người kinh doanh thành công. Tuy nhiên, quá trình vận hành nền kinh tế của cơ chế thị trường cũng đưa lại những kết quả không mong muốn mà nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu. Chính vì thế, ngày nay để vận hành TTDL hoạt động có hiệu quả và để thực hiện các mục tiêu xã hội trong phát triển kinh tế, ở nhiều nước đã có sự kết hợp giữa thị trường và nhà nước.

Nhà nước điều tiết và quản lý TTDL là hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm hướng sự hoạt động của các chủ thị trường theo mục đích nhà nước đã lựa


chọn. Để thực hiện việc điều tiết này, nhà nước phải sử dụng các công cụ kể cả kinh tế và công cụ hành chính. Đó là hệ thống luật pháp, kế hoạch hóa và các chính sách phát triển TTDL, hệ thồng xúc tiến và quảng bá du lịch, bộ máy quản lý TTDL mà chủ yếu là các hoạt động kinh doanh du lịch. Cùng với tạo điều kiện môi trường thông thoáng trong đầu tư kinh doanh du lịch, việc nhà nước điều tiết TTDL đòi hỏi phải có sự kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh du lịch. Nó bao gồm kiểm tra, kiểm soát hoạt động của TTDL theo định hướng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển đã được xác định để có hướng điều chỉnh kịp thời; kiểm tra việc sử dụng các nguồn lực để phát triển sản phẩm du lịch để các nguồn lực được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, không bị lãng phí; kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chức năng của nhà nước về TTDL nhằm bảo đảm trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động du lịch, các hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp du lịch nắm chắc tình trạng hoạt động của doanh nghiệp để có phương hướng và biện pháp điều chỉnh nhằm đảm bảo cho chúng tối ưu hóa hiệu quả hoạt động.

Ở CHDCND Lào hiện nay, việc nhà nước thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh và phát triển các loại hình doanh nghiệp du lịch, bảo đảm cho mọi công dân có quyền tự do đầu tư kinh doanh trong các lĩnh vực du lịch mà nhà nước không cấm, quyền bất khả xâm phạm về sở hữu hợp pháp trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển, tiếp cận thông tin, v.v... Đồng thời, để thúc đẩy TTDL, nhà nước đã chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế, tham gia đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu và song phương. Những chủ trương và chính sách này là rất cần thiết cho phát triển TTDL ở Lào.

Như vậy, nội dung phát triển TTDL bao gồm việc quy hoạch, định hướng phát triển thị trường, phát triển nguồn cung cho thị trường và tạo lập môi trường, thể chế thuận lợi cho phát triển thị trường. Thực chất, đây là những nội dung tác động làm tăng số lượng và nâng cao chất lượng cung về sản phẩm du lịch theo quan điểm cung dẫn cầu. Tất nhiên, trên TTDL cầu cũng có vai trò rất quan trọng, nhiều khi lại trở thành nhân tố quyết định cung. Do vậy, để phát triển


TTDL, các nhà hoạch định chính sách phải tính đến các nhân tố kích cầu du lịch trong một bối cảnh nhất định.

2.2.2. Tiêu chí đánh giá kết quả phát triển thị trường du lịch

Việc xác định tiêu chí đánh giá kết quả phát triển TTDL là rất cần thiết để có cơ sở nghiên cứu thực trạng và tìm kiếm định hướng, giải pháp đầu tư, hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy phát triển. Đến nay, các nhà nghiên cứu và tổ chức thực tiễn trên thế giới đã xây dựng khá nhiều tiêu chí đánh giá về mức độ hoạt động du lịch, như tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của điểm đến theo mô hình của Crouch và Ritchie (2003), Brazil (2010) [83]; mô hình đánh giá về mức độ hấp dẫn của điểm đến du lịch trên trang web TripAdvisor; tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp du lịch; và có những tiêu chí đánh giá tác động của du lịch đối với kinh tế, xã hội. Từ nghiên cứu lý thuyết và kinh nghiệm các nước, tác giả xác định để đánh giá kết quả phát triển TTDL có các tiêu chí chủ yếu như sau:

- Quy mô và mức độ hấp dẫn của thị trường. Với tiêu chí này, quy mô TTDL càng lớn tức là lượng cung và lượng cầu du lịch càng nhiều, TTDL càng mở rộng, càng tạo sự hấp dẫn đối với du khách, kích thích việc tăng cung. Có thể đo lường tiêu chí này bằng quy mô nguồn lực chủ yếu là mức độ đa dạng và tính độc đáo của tài nguyên du lịch, sức chứa của điểm tài nguyên, bảo vệ và tôn tạo tài nguyên du lịch. Mức độ tiện lợi của các yếu tố hỗ trợ gồm hệ thống hạ tầng và phương tiện giao thông, hệ thống điện và cấp thoát nước, mức độ đảm bảo trật tự an ninh, an toàn cho du khách, môi trường sinh thái tại điểm đến du lịch. Quy mô sản phẩm hàng hóa và dịch vụ du lịch gồm năng lực cung cấp thông tin, hướng dẫn, thuyết minh cho khách hàng, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ phục vụ lưu trú của du khách, hệ thống nhà hàng phục vụ khách du lịch, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí, tham quan, nghỉ dưỡng, khám phá, tìm hiểu các giá trị về tự nhiên, văn hóa, dịch vụ tổ chức sự kiện, hội nghị, hội thảo, dịch vụ mua sắm. Nếu các dịch vụ này đa dạng, tiện nghi và có quy mô lớn thì quy mô TTDL là lớn và có nhiều khả


năng thu hút du khách cả trong nước và quốc tế hơn so với các TTDL có quy mô nhỏ và thiếu đồng bộ về các loại dịch vụ.

Sức hấp dẫn của TTDL còn được thể hiện ở mức độ thu hút đầu tư nước ngoài vào thị trường này nhiều hay ít có thể đo đếm được.

- Sức cạnh tranh của thị trường. Tiêu chí này dùng để xác định năng lực hoạt đông của một TTDL so với các TTDL khác. Nó bao gồm sức đáp ứng của kết cấu hạ tầng, dịch vụ và trang thiết vị du lịch, khả năng tiếp cận thị trường, sức hấp dẫn của điểm tham quan vui chơi, marketing, chính sách công, liên kết vùng, mức độ kiểm tra giám sát, nền kinh tế vùng, năng lực kinh doanh, và các khía cạnh về văn hóa, xã hội, môi trường.

- Mức độ tạo việc làm và thu nhập. Đây là tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế của TTDL. Nó được đo bằng mức độ tăng trưởng việc làm và tăng trưởng thu nhập với các chỉ tiêu:

Tăng trưởng việc làm: trong đó gL là tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động trên TTDL trong kỳ 2, trong đó gL là tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động trên TTDL trong kỳ nghiên cứu, Lt là số lượng lao động làm việc trên TTDL tại thời điểm t (tháng, quý, năm), Lt-1 là số lượng lao động làm việc trên TTDL tại thời điểm trước (tháng trước, quý trước, năm trước). Nếu gL> 0 thì có sự tăng trưởng, còn nếu gL< 0 là có sự suy giảm.

Tăng trưởng thu nhập: trong đó gY là tốc độ tăng trưởng thu nhập trên TTDL trong kỳ nghiên cứu Yt 4, trong đó gY là tốc độ tăng trưởng thu nhập trên TTDL trong kỳ nghiên cứu, Yt là tổng thu nhập của TTDL tại thời điểm t (tháng, quý, năm), Yt-1 là tổng thu của TTDL tại thời điểm trước (tháng trước, quý trước, năm trước). Nếu gY> 0 thì có sự tăng trưởng, nếu gY = 0 tức là không có sự tăng trưởng (trong kinh tế chính trị còn gọi là đình trệ), còn nếu gY< 0 là có sự suy giảm. Chỉ tiêu này có thể dùng đo lượng thành quả chung về hoạt động của mộ TTDL cả cấp tỉnh, cấp quốc gia và toàn thế giới, và cũng có thể đo lường sự thay đổi trung bình về thu nhập của người lao động theo thời gian. Tiêu chí tăng trưởng thu nhập của lao động cũng được hiểu là mức độ về tăng năng suất lao động của người lao động làm việc ở thị trường này.


Mức độ đóng góp của TTDL vào tổng giá trị sản lượng trong nước, trong tỉnh:

Mức đóng góp của TTDL(%) = 100 Chỉ số này cho biết tầm quan trọng của TTDL trong việc tạo ra giá trị 5.100%. Chỉ số này cho biết tầm quan trọng của TTDL trong việc tạo ra giá trị chung của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, có thể tính ở trong nước và trong tỉnh. Dựa vào phương pháp này, có thể xác định mức đóng góp của TTDL đối với nguồn thu ngoại tệ, thu ngân sách cho địa phương phát triển du lịch.

Ngoài ra, có thể sử dụng tiêu chí về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên TTDL như hiệu quả sử dụng vốn, tăng trưởng lợi nhuận.

- Mức độ lôi kéo của TTDL đối với các thị trường, các ngành khác trong nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh du lịch cần nhiều sự hỗ trợ của các thị trường và các ngành kinh tế khác. Nhiều khu vực khác cũng được hưởng lợi thông qua hỗ trợ các sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch, như xây dựng, in ấn và xuất bản, sản xuất, bảo hiểm, vận tải, lưu trú, bán lẻ, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tài chính. Do vậy, có thể đánh giá được mức độ lôi kéo của TTDL đối với các thị trường, các ngành kinh tế khác. Ở các tỉnh có làng nghề truyền thống, họ tận dụng thế mạnh của mình để phát triển du lịch bằng việc giới thiệu và bán các sản phẩm thủ công cho các du khách đến thăm quan tạo cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức xuất khẩu. Mức độ tăng trưởng của các nghề truyền thống địa phương nhờ dựa vào TTDL cũng là tiêu chí để đánh giá độ lôi kéo của sự phát triển thị trường này.

- Tiêu chí về tác động lan tỏa của TTDL đối với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để xác định mức độ lan tỏa này có thể sử dụng gồm khả năng tạo việc làm cho lao động nữ của địa phương, góp phần giáo dục truyền thống, văn hóa, tri thức về tự nhiên, xã hội, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái; quảng bá hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua các du khách, quảng bá, tăng tầm hiểu biết chung về văn hóa, xã hội, hình ảnh đất nước, con người, truyền thống, văn hóa của tỉnh, quốc gia, kết nối bạn bè...

Xem tất cả 173 trang.

Ngày đăng: 15/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí