và con người nghèo hèn, khổ đau, giọng vãn nhiều rung cảm thắm thiết, đặc biệt lại gần gũi với mình”[19,10]. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa hiện thực khách quan - nhà văn - tác phẩm, Nguyên Hồng đã có những nhận xét xuất sắc, chính xác cả về phương diện nội dung, tư tưởng lẫn giọng điệu văn chương của Kim Lân.
Văn của Kim Lân có cái gì rất gần gũi, bình dị. Đó là văn của một người viết về chính cuộc sống mình, hàng xóm mình. Kim Lân viết văn với ý nguyện rất đỗi giản dị như lời nhận xét của nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá trong Từ điển Văn học, tập 1: “Kim Lân quan niệm viết văn như cách đòi cho mình một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh của quê hương”[ 54,369].
Trong Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ thông (Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1997), Vũ Dương Quỹ đã nhận xét khá sắc sảo về nội dung, tư tưởng của truyện ngắn Kim Lân: “Những truyện ngắn Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám, bên những thân phận con người lam lũ vất vả, vẫn phập phồng trái tỉm yêu đời, những mong muốn tuy mơ hồ nhưng da diết, con người đối xử với nhau bao dung, nhân hậu hơn” [57].
Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân được đánh giá cao khi viết về mảng đề tài sinh hoạt văn hoá và phong tục làng quê. Vũ Bằng khi đọc các truyện của Kim Lân đã khen và khuyên Kim Lân nên viết về thú chơi thôn quê. Các truyện Con Mã mái, Đôi chim thành, Đánh vật, Chó săn lần lượt được đăng trên các báo Trung Bắc chủ nhật và Tiểu thuyết thứ bảy. Nhận xét truyện ngắn viết về đề tài phong tục và thú chơi đồng quê của Kim Lân sau khi so sánh với truyện của các tác giả khác cùng chung đề tài, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định rõ: “Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng” và ông tiếp tục lí giải: “Sở dĩ có sự hấp dẫn, không phải vì ở đấy, những tập quán ngộ nghĩnh kì lạ, những thú chơi phiền phức, cầu kì được trình bày cặn kẽ, mà
chính là nhờ nhà văn đã hiển hiện lên được những con người ở làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời” [39,64]. Kim Lân thật may mắn khi được sinh ra và lớn lên từ vùng quê Bắc Ninh, vùng đất văn vật nổi tiếng xứ Kinh Bắc. Chất tài hoa, sự lịch lãm, nề nếp cổ xưa dường như in đậm dâú ấn trong văn chương của ông. Đọc truyện ngắn Kim Lân, chúng ta dễ bị cuốn hút bơỉ một thứ chất đồng bằng Bắc bộ kín đáo, dung dị và chín chắn. Truyện ngắn Kim Lân vì thế cũng rất có ích cho những nhà xã hội học muốn nghiên cứu, tìm hiểu về mảnh đất Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa.
Trong Tổng tập văn học Việt Nam, Nguyễn Đăng Mạnh một lần nữa nhận xét tổng quát hơn về đặc điểm truyện ngắn Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám và tấm lòng nhân hậu của nhà văn: “Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt giấy trắng chứa chất nhân thế, nhân tình, hoặc những trang tuy nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh nhưng vẫn biểu hiện được một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám - những người sống vất vả, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa”[39, 369].
Thành công của Kim Lân chủ yếu là do năng khiếu tài hoa và một vốn sống tự nhiên mà theo Nguyên Hồng - tác giả cuốn Bước đường viết văn (năm 1970) đã từng khẳng định đó là một con người luôn luôn: “Một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn trước Cách mạng tháng Tám.
2.2. Những ý kiến đánh giá, nhận xét về truyện ngắn Kim Lân sau Cách mạng tháng Tám
Trên báo Văn nghệ số 34 (1991), Trần Ninh Hồ đã có nhận xét thật xúc động: “Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó
mà diễn đạt thành lời…. Mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy, ta lại cảm thấy không một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện ngắn”.[18] Đây có lẽ là lời nhận xét của một người hiểu và cảm nhận sâu sắc truyện ngắn Kim Lân để rồi thấy rõ vai trò, tác dụng của những tác phẩm ấy với hiện thực khách quan.
Có thể bạn quan tâm!
- Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân - 1
- Quan Niệm Về Đặc Điểm Của Nhân Vật
- Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân - 4
- Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân - 5
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Trong Tác giả văn học Việt Nam, tập 2, với cái nhìn biện chứng sắc sảo và quan điểm lịch sử, Nguyễn Đăng Mạnh đã đưa ra những lời nhận xét thuyết phục về đặc điểm, vị trí của truyện ngắn Kim Lân: “Sau Cách mạng tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương diện xã hội chính trị, của đời sống nông dân gắn liền với vận mệnh của đất nước, về đề tài này, Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại” [37,49]. Như vậy, cũng giống bao văn nghệ sĩ khác, cách mạng đã đem đến cho Kim Lân cảm hứng mới, ý thức hơn về trách nhiệm nhà văn trước cuộc sống cũng như tầm nhìn, tầm nghĩ của chính bản thân.
Truyện Làng được viết và in năm 1948 trên Tạp chí Văn nghệ số đầu tiên ở chiến khu Việt Bắc. Tác phẩm này nhanh chóng được khẳng định và là một trong số không nhiều truyện ngắn thành công sớm nhất của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Cùng với Đôi mắt của Nam Cao, Thư nhà của Hồ Phương, Làng của Kim Lân đã khai phá và mở ra những triển vọng tốt đẹp cho văn học kháng chiến chống Pháp. Làng là một truyện ngắn xuất sắc Kim Lân miêu tả và ca ngợi sự đổi mới về nhận thức và tình cảm của người nông dân sau Cách mạng tháng Tám.
Sau truyện ngắn Làng, Kim Lân tiếp tục nổi tiếng với Vợ nhặt. Tác phẩm được nhà văn viết với sự xúc động mãnh liệt từ nạn đói khủng khiếp của dân tộc năm 1945 - nạn đói đã cướp mất một phần mười dân số ít ỏi của Việt Nam lúc bấy giờ. Trong Tiếng nói tri âm viết năm 1994, Trần Đồng Minh đã đánh giá, khẳng định vị trí của truyện ngắn Vợ nhặt bằng sự so sánh
văn học: “Kim Lân chọn bối cảnh ấy (nạn đói 1945) cho truyện Vợ nhặt không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiểm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân, khiến ta khiếp sợ, rụng rời” [43,126].
Đặt trong mối liên hệ biện chứng và sự phát triển chung của văn học thời kì này, Vũ Dương Quỹ đánh giá chân xác: “Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945” [56,125]. Đúng vậy, truyện ngắn này không một dòng tố cáo mà sức mạnh tố cáo cứ dậy lên trên từng con chữ. số phận bi thảm của những con người nghèo đói, cuộc hôn nhân lạ lùng của Tràng chính là bản án đanh thép tố cáo tội ác hủy diệt của Pháp - Nhật.
Trong Nghề văn cũng lắm công phu (tái bản năm 2003), Nguyễn Khải, một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại tâm sự: “Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này viết lách được cái gì thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn” [21]. Theo cách nói của Nguyễn Khải, nhà văn Kim Lân được xếp vào hàng những nhà văn xuất sắc của thế kỷ XX. Chẳng thế mà Nguyễn Khải khi đọc Làng và Vợ Nhặt của Kim Lân đã ngạc nhiên mà thốt lên rằng: “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”.
Khẳng định về tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, Hà Minh Đức viết trong Nhà văn nói về tác phẩm: “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc” [9,31]. Cả đời văn Kim Lân chỉ chuyên tâm viết truyện ngắn. Truyện của ông thường tập trung miêu tả sinh hoạt làng quê và hình tượng người nông dân. Nhưng thế giới nghệ thuật của
ông không vì vậy mà bị giảm sức sống và sự hấp dẫn. Dù bao lớp bụi phủ mờ thời gian, truyện ngắn Kim Lân đã và đang có vị trí xứng đáng trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Sau khi dừng lại ở một số ý kiến nhận xét, đánh giá đáng chú ý của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi thấy về cơ bản các nhà nghiên cứu đều có chung nhận xét: Kim Lân chỉ chuyên viết truyện ngắn và viết không nhiều nhưng nói đến những nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc ở nước ta không thể không nhắc đến Kim Lân. Mặc dù Kim Lân được đánh giá là người có tài viết truyện ngắn nhưng những công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông còn quá ít ỏi và mới chỉ là những bài viết, những ý kiến nhận xét chung chung hoặc chỉ tập trung nhận xét về hai truyện ngắn Làng và Vợ nhặt. Thật sự chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng quát, có hệ thống đặc điểm truyện ngắn Kim Lân. Do đó luận văn chúng tôi không hẳn là hoàn toàn mới mẻ nhưng hi vọng sẽ góp thêm tiếng nói khẳng định vị trí xứng đáng của truyện ngắn Kim Lân trong văn học Việt Nam hiện đại.
Trên đây là một số trong rất nhiều công trình nghiên cứu về con người và văn chương Kim Lân. Luận văn của chúng tôi sẽ tiếp thu, vận dụng những ý kiến, đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trước, đặt chúng vào trong một hệ thống chung khi khảo sát, phân tích, nghiên cứu thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân.
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
Khảo sát và nghiên cứu thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân, trước hết có ý nghĩa thiết thực cho việc dạy và học tác phẩm Kim Lân trong nhà trường phổ thông. Đồng thời nghiên cứu thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân cũng chính là góp phần nghiên cứu phong cách một tác giả cụ thể của văn học Việt Nam hiện đại. Trên cơ sở khảo sát, phân tích và nghiên cứu thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi hy vọng Luận văn góp một phần nhỏ khẳng định vị trí, vai trò của Kim Lân đối với sự
nghiệp phát triển truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi là các truyện ngắn của Kim Lân đã được xuất bản:
Làng, truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ, 1948, NXB Văn nghệ, Hà Nội,
1955.
Nên vợ nên chồng, tập truyện ngắn, NXBVăn nghệ, Hà Nội, 1955.
Ông lão hàng xóm (cùng Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng), NXB
Văn nghệ, Hà Nội, 1957.
Anh chàng hiệp sĩ gỗ, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1958 . Vợ nhặt, tập truyện ngắn, NXB Văn học, Hà nội, 1983. Ông Cản Ngũ, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1984.
Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
Kim Lân - Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, 2004. Kim Lân tuyển tập, NXB Văn học, 2012
Tuy nhiên, để phục vụ cho vấn đề nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ tìm hiểu qua một số truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp loại hình: Nhằm xem xét sáng tác của nhà văn từ góc độ loại hình thể loại, loại hình văn bản nghệ thuật.
- Phương pháp so sánh: Nhằm phát hiện, khẳng định bản sắc riêng của truyện ngắn Kim Lân, đối chiếu các vấn đề nghiên cứu về truyện ngắn Kim Lân với truyện ngắn của một số tác giả khác để đi tìm những sự tương đồng và khác biệt.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là một phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung. Chúng tôi đã vận dụng
phương pháp này để phân tích, tổng hợp từ cấp độ câu văn, đọan văn có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận điểm tổng hợp, trong Luận văn.
- Phương pháp thống kê, phân loại: thu thập và phân loại các dấu hiệu nghệ thuật nổi bật trong sáng tác của Kim Lân xoay quanh vấn đề nghiên cứu.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Sách tham khảo và Phụ lục, luận văn được chia làm 3 chương gồm:
Chương 1: Khái quát về nhân vật và quan điểm nghệ thuật của Kim Lân Chương 2: Các dạng nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA KIM LÂN
1.1. Khái quát về nhân vật
1.1.1. Khái niệm về nhân vật
Văn học là tấm gương phản ảnh hiện thực cuộc sống với đối tượng trung tâm là con người qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Bởi vậy nhân vật trong tác phẩm văn học không phải là những con người bằng xương bằng thịt của cuộc sống “mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả.” (G.N.Pôspêlôv: Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXBGD, HN, 1998).
Văn học không thể thiếu nhân vật vì nhân vật là phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đóc, về một loại người nào đó. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định. Trong văn học nghệ thuật, nhân vật được xem là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chép đẩy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ thể hiện qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…
Nhân vật là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật… Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được xây dựng chỉ dựa trên quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có được trong hệ thống một tác phẩm cụ thể. Qua đó, chúng ta có thể rút ra một kết luận: nhân vật trong tác phẩm văn học chính là con người hoặc các loài cây, các sinh thể hoang đường nhưng mang những đặc điểm giống với con người. Nhân vật ấy là đứa con tinh thần của nhà văn, là máu thịt của nhà văn để thể hiện quan