vườn, họ đã đào được một bộ hài cốt. Xót thương cho người xấu số, các ông đã xin ông chủ nhà vườn chi cho một cái tiểu sành để đem chôn cất. Nhưng ông chủ là người keo kiệt nên đã bảo các ông cho hài cốt đó vào bao dứa rồi đem ra bờ sông vùi. Ông Hùng và ông Thắng đã xin tạm ứng tiền công để đi mua một chiếc tiểu rồi gom góp toàn bộ số tiền còn lại mua lễ cúng cho người xấu số. Với việc làm đầy tình nghĩa đó, hai ông đã được "đền đáp" xứng đáng. Ông Thắng thì gặp và cưới được một cô vợ thảo hiền, nết na rồi đẻ được một cậu con trai kháu khỉnh. Ông Hùng thì đã có hai cô "vịt giời" đang cầu mong có được một "củ khoai" nữa cũng được toại nguyện. Còn ông chủ nhà vườn keo kiệt kia thì ngày một lụi bại, vườn của ông ta trồng cây gì, chết cây ấy, nuôi con gì chết con ấy, mương đào rất tốt nhưng nước cứ chảy vào ao là lại bị cạn sạch.
Như vậy, có thể thấy cốt truyện trong truyện ngắn của Vi Thị Kim Bình hầu hết được xây dựng theo lối truyền thống. Đó là kiểu cốt truyện đơn tuyến, nhân vật và sự kiện ít, các sự kiện diễn ra theo trình tự thời gian tuyến tính, thể hiện một ý nghĩa nhất định. Cách xây dựng cốt truyện như vậy vừa thể hiện lối tư duy mộc mạc, đơn giản vừa khiến cho người đọc dễ nắm bắt cốt truyện, dễ hình dung ra nhân vật, có thái độ yêu ghét rõ ràng. Tư duy nghệ thuật hướng về truyền thống của Vi Thị Kim Bình khiến cho tác phẩm của nhà văn mang đậm chất nhân văn, nhân bản, hướng con người tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Tuy nhiên, kiểu cốt truyện này cũng có những hạn chế nhất định - bởi nó làm cho nhân vật bị đơn giản hóa về tính cách, đôi khi không phát triển theo quy luật tự nhiên, số phận của nhân vật thường do tác giả định đoạt. Nếu cứ sử dụng lối kết cấu này mãi sẽ dễ làm cho tác phẩm rơi vào công thức, không đa dạng, dễ nhàm chán đối với người đọc.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Khái niệm nhân vật văn học
Nhân vật văn học là con người cụ thể hoặc có thể là con vật, hoặc một loài thực vật...) được miêu tả trong tác phẩm văn học bằng những phương tiện
văn học. Tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét, đánh giá sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, một trường phái hoặc một dòng phong cách.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử chủ biên thì "nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống" [13, tr. 235]. Nhân vật văn học chính là đối tượng chứa đựng nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Vì thế, nhân vật được dựng lên có thể không phải là con người thật nên không thể phán xét nó ở ngoài đờì mà phải đặt trong mối quan hệ tình huống truyện của nhà văn.
Từ điển văn học (bộ mới) lại có định nghĩa như sau: "Nhân vật văn học là thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn cho các đặc điểm giống con người" [15, tr. 52]. Như vậy, nhân vật trong tác phẩm văn học rất phong phú, có khi là người có tên riêng hoặc cũng có thể không có tên riêng. Trong truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn - nhân vật có khi là các vị thần hoặc bán thần, có khi là những con vật, đồ vật... nhưng đều mang dáng dấp của con người và phản ánh nhận thức về con người.
Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn có thể nói nhân dân là nhân vật chính tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtôi
Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách con người mà tính cách lại là một hiện tượng xã hội, lịch sử nên chức năng khái quát của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. Nhân vật văn học dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác nhau của đời sống.
Có thể bạn quan tâm!
- Hình Tượng "những Bông Huệ Trắng" Ngát Hương Giàu Đức Hi Sinh, Giàu Lòng Nhân Ái.
- Con Người Miền Núi Trước Những Cơ Hội Và Thách Thức Trong Thời Mở Cửa Của Đất Nước.
- Khái Niệm Cốt Truyện Trong Tác Phẩm Tự Sự.
- Nghệ Thuật Miêu Tả Tâm Lí, Tính Cách Nhân Vật Qua Độc Thoại Nội Tâm
- Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Truyện Ngắn Vi Thị Kim Bình
- Truyện ngắn Vi Thị Kim Bình - 14
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
Nhân vật văn học được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật khác nên nhân vật luôn gắn liền với cốt truyện. Nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách được bộc lộ dần trong không gian, thời gian, mang tính chất quá trình.
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình
Hiện lên trong các trang văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số là một thế giới con người miền biên viễn xa xôi. Thời kì đầu, nhân vật trung tâm của văn xuôi dân tộc thiểu số là người nông dân miền núi, về sau mở rộng tới các tầng lớp trí thức dân tộc và nhiều tầng lớp xã hội khác gắn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở miền núi thời kì đổi mới. Ngoài ra, còn có các nhân vật là những cán bộ, bộ đội, nhân dân... miền xuôi lên miền núi tham gia lao động và chiến đấu xây dựng quê hương mới vùng địa đầu Tổ quốc..
Phần lớn các nhà văn dân tộc thiểu số khi xây dựng nhân vật trong tác phẩm của mình đều chịu ảnh hưởng của thi pháp văn học dân gian với kiểu nhân vật chức năng. Đặc trưng của loại nhân vật này là thường mang một nét tính cách nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm mà không có sự xáo trộn, đan xen. Nhân vật chính thường là những con người được lí tưởng hóa, mang vẻ đẹp toàn diện, từ hình thức bên ngoài đến phẩm chất, nhân cách bên trong. Họ thường là những con người giàu lòng nhân ái, giàu đức hi sinh, giàu nghị lực, luôn cố gắng vươn lên vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống. Sự chân thật, mộc mạc và bản chất lương thiện là đặc trưng cơ bản của các nhân vật đại diện cho cái đẹp, cái thiện mà các nhà văn người dân tộc thiểu số thể hiện trong tác phẩm của mình. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, các nhà văn
người dân tộc thiểu số không chú ý nhiều đến việc khắc họa cá tính và đời sống tâm lí của nhân vật mà chỉ chú ý đến việc khắc họa về ngoại hình và hành động để làm nổi bật tính cách chân thật, hồn nhiên, trong sáng của nhân vật. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại.
Vi Thị Kim Bình đã xây dựng trong các truyện ngắn của mình một loạt các hình tượng nhân vật là chính những người dân xứ Lạng quê chị. Đó là những bác sĩ, y tá, hộ lí, bệnh nhân - những đồng nghiệp, những người gắn với nghề thầy thuốc của chị; đó còn là những người dân miền núi khác với bản chất mộc mạc, giản dị, nhân nghĩa, thủy chung giàu nghị lực, giàu đức hi sinh. Bên cạnh đó, còn có những nhân vật là cán bộ, bộ đội, những kĩ sư lâm nghiệp, những giáo viên hoặc những người lao động bình thường khác là người miền xuôi lên sinh sống, làm việc tại nơi này ... Hầu hết các nhân vật đều được nhà văn xây dựng theo thi pháp truyền thống. Với những nét đặc trưng cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật là xây dựng nhân vật qua việc khắc họa ngoại hình, qua miêu tả hành động và tâm lí của nhân vật.
3.2.2.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật qua ngoại hình
Như đã biết, ngoại hình là một trong những phương diện cơ bản để khắc họa nhân vật văn học. Qua việc miêu tả nhân vật, nhà văn có thể khơi gợi cho người đọc những liên tưởng chính xác về một con người với những đặc điểm riêng. Đối với người viết, việc miêu tả ngoại hình không đơn thuần là vẽ nên trước mắt người đọc một con người sơ cứng, giản đơn mà dựng nên chân dung một con người thật, một cá thể sinh động, hấp dẫn, thể hiện được quan niệm, tư duy nghệ thuật của tác giả ở trong đó.
Khảo sát truyện ngắn của Vi Thị Kim Bình, có thể thấy trong hầu hết các tác phẩm của mình, nhà văn thường sử dụng nghệ thuật miêu tả ngoại hình để khắc họa hình tượng nhân vật.
Các tác giả văn học dân tộc thiểu số thường lấy thiên nhiên, núi rừng làm vẻ đẹp chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của con người nên thủ pháp so sánh, liên tưởng là thủ pháp nghệ thuật đặc trưng trong nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật của các cây bút này.
Vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình cũng mang đặc trưng đó. Khi khắc họa vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật nữ nhà văn thường so sánh vẻ đẹp ngoại hình của người con gái miền sơn cước với vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc. Trong truyện ngắn Mối tình nghiệt ngã, tác giả đã miêu tả ngoại hình nhân vật Mão qua những hình ảnh so sánh thật cụ thể với vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng xứ Lạng: "Chị Mão đẹp một cách rạng rỡ... Da chị trắng hồng như cánh hoa đào Mẫu Sơn quê hương chị. Đôi môi chị tươi cười, đỏ thắm như những cánh hoa Bích đào. Đôi mắt to, đen ngơ ngác, hồn nhiên" [7]. Chỉ bằng những so sánh rất giản dị, quen thuộc người đọc có thể thấy được nét xinh đẹp, rực rỡ, tươi thắm của người phụ nữ này. Có khi nhà văn lại lấy hình ảnh những cánh hồng nhung mơn mởn để gợi tả đôi môi người con gái miền núi xinh đẹp: "Đôi môi hình trái tim đỏ mọng như một cánh hồng nhung" [7]. Đôi môi của người con gái miền sơn cước thật tươi, thật thắm, đầy sức sống. Hay khi miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của Hưởng trong truyện ngắn Ánh đuốc bên bờ suối tác giả cũng chú ý miêu tả "đôi môi rất nét, đỏ mọng của cô như hai cánh hoa bích đào"; cô Đẹp trong truyện ngắn Người bệnh là một cô gái xa lạ cũng được nhà văn chú ý miêu tả đôi má bằng hình ảnh so sánh rất độc đáo: "Hai má cô hồng như hai quả hồng chín, đỏ mọng" [7]. Nhân vật Hoa và Cầm trong truyện ngắn Hương rừng cũng là những cô gái mang nét đẹp của "hai bông hoa rừng" xứ Lạng rực rỡ, xinh tươi, trong sáng...
Qua việc miêu tả ngoại hình nhân vật, nhà văn cũng muốn khắc họa phần nào hoàn cảnh sống và tâm lí, tính cách nhân vật. Ví dụ như việc miêu tả những nét ngoại hình ba thầy giáo miền xuôi lên công tác ở vùng núi cao biên
giới trong truyện ngắn Hương rừng đã cho thấy rõ điều đó. Thầy giáo Bách người Hải Phòng, dù được hít thở và được nuôi dưỡng bằng hơi ấm mặn nồng của gió biển nhưng anh lại không mang làn da đen cháy của biển: "Anh người tầm thước, da trắng hồng, đeo kính cận, rất thư sinh. Anh hát hay, chơi đàn ghi ta rất điêu luyện" [7]; thầy giáo Hậu thì quê ở Hà Nội, người "cao dong dỏng, trắng trẻo, vẫn mang dáng dấp của một sinh viên" [7]; còn thầy giáo Hùng, quê ở Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội lại "cao, đậm người, có nước da bánh mật khỏe mạnh. Nhìn vẻ bề ngoài của Hậu người ta có thể đoán được ngoài việc đi học anh còn lao động giúp bố mẹ việc đồng ruộng" [7]. Qua những nét miêu tả ngoại hình nhân vật, tác giả đã cho người đọc những hình dung về ba chàng thư sinh vừa tốt nghiệp ra trường, họ chưa từng đặt chân đến những vùng rừng núi hoang sơ này. Với họ, đây là chốn "rừng thiêng nước độc" nên khi lên đây nhận công tác ba thầy giáo trẻ không khỏi mang theo trong lòng "những nỗi buồn, nỗi nhớ, cả nỗi lo lắng và sợ hãi" [7]. Đó là nét tâm lí thường gặp của những người miền xuôi khi mới lên vùng cao công tác. Nhưng đó chỉ là những cảm xúc ban đầu, sau một thời gian sống và làm việc nơi đây, họ đã bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của núi non, con người và cảnh vật nơi đây "hương rừng" và nguyện gắn bó cả đời với cuộc sống và con người ở xứ sở này.
Anh Linh, Bệnh viện Trưởng Viện Lao nơi Vân làm việc (Niềm vui) tuy đã ngoài bốn mươi tuổi nhưng "có nước da đỏ đắn, đôi mắt thông minh, tinh nhanh, cởi mở" [7]. Nét ngoại hình của bác sĩ Linh cho ta thấy đây là một con người khỏe mạnh, thông minh, nhanh nhẹn, rất gần gũi, chan hòa với mọi người. Trong truyện ngắn Người giao thông quốc tế, nhân vật Sầm A Sống cũng được tác giả miêu tả ngoại hình như sau: "Ông có dáng người nhỏ nhắn, xương xương, đôi mắt như hai dấu huyền hơi sâu, rất tinh tường. Ông có bước sải chân dài thoăn thoắt. Trông ông rắn rỏi như một thanh niên" [7]. Đôi mắt tinh tường và dáng người nhỏ nhắn đó là những dấu vết còn để lại
của một thời oanh liệt, của những năm tháng đầy căng thẳng, gian khổ và hi sinh của ông nên tuy đã trải qua "bảy mươi lăm lần hoa đào, hoa mận nở" nhưng "Tóc ông mới lấm tấm muối tiêu" [7].
Trong các truyện ngắn Niềm hi vọng mong manh, Trong khung cửa sổ, thông qua việc miêu tả ngoại hình, nhà văn cũng đã cho người đọc thấy được sự tương quan giữa tính cách và ngoại hình. Tính cách tốt - xấu, ngay - gian, thiện - ác ... của nhân vật được bộc lộ ngay từ hình dạng bề ngoài.
Bằng việc miêu tả đôi mắt và dáng vẻ bề ngoài, người đọc có thể nhận ra sự gian giảo, xảo quyệt của nhân vật cô Hai trong truyện ngắn Niềm hi vọng mong manh. Cô có đôi mắt "liếc ngang liếc dọc", "có mái tóc quăn tự nhiên, mắt to, mũi cao" [7], tuy đã năm con nhưng cô còn rất "giòn" và cô giàu có là nhờ tấm thân phốp pháp của mình. Chẳng có bằng cấp gì nhưng cô không thua kém ai. Dựa vào lợi thế sắc đẹp của mình cô đã lôi rất nhiều quan chức vào con đường tham nhũng, moi tiền trong kho của nhà nước để đút vào túi riêng của mình.
Mở đầu truyện ngắn Trong khung cửa sổ, cũng là những trang miêu tả ngoại hình một người đàn ông: "Một người gầy nhom, ngồi thu lu trên giường, hai vai lọt thỏm dưới hai đầu gối xương xẩu nhô cao" [7]. Ông ta ho khù khụ, tiếng ho nặng nhọc, "mặt ông nhăn nhó, đau đớn, người ông tím bầm như người chết đuối vừa được vớt lên" [7]. Qua những trang miêu tả ngoại hình đó, nhà văn đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh một con bệnh đang bị căn bệnh ung thư phổi hành hạ. Nhìn hình ảnh ông lúc này, không ai nghĩ cách đây ngót sáu tháng, khi còn là bí thư huyện, ông vẫn cắp cặp, chễm chệ ngồi trên xe u – oát lên tỉnh họp, tiếng nói của ông là "hét ra lửa", xung quanh ông lúc nào cũng có những kẻ xu nịnh, tâng bốc đưa ông lên "chín tầng mây". Nhưng những ngày oanh liệt đó đã không còn, căn bệnh ung thu quái ác đã làm ông "tàn lụi" một cách nhanh chóng, giờ đây trông ông như một bóng ma "người ông gầy đét", nằm ngồi đều rất khó khăn với những cơn ho
thắt ruột thắt gan. Nhưng điều đau đớn nhất đối với ông lúc này lại chính là sự khinh bỉ, xa lánh của mọi người chư không phải là do cơn đau phổi hành hạ. Khi còn đương chức, đương quyền, ông đã làm nhiều chuyện thất đức cho nên bây giờ ông mới bị bệnh tật dày vò, đau đớn, muốn sống không được, muốn chết cũng không xong. Đó cũng là cái giá mà ông phải trả cho những việc làm sai trái của mình khi còn đương chức, đương quyền.
Thông qua những nét miêu tả ngoại hình của nhân vật, nhà văn Vi Thị Kim Bình đã phần nào khắc họa được nội tâm bên trong của nhân vật. Trong truyện Mối tình nghiệt ngã, khi phải hi sinh tổ ấm bé nhỏ của mình, nhận lời yêu và lấy An-be theo nhiệm vụ tổ chức giao phó trái tim chị đau đớn tốt cùng. Chị sống như người nửa tỉnh nửa mơ. Qua đôi mắt "sâu xuống, thâm quầng" của chị Mão người đọc nhận ra sự giằng xé, tê tái, đau đớn trong trái tim của chị. Hai bên họ nội ngoại, bạn bè sẽ cho chị là kẻ phản bội, bạc tình, bạc nghĩa. Người chồng của chị ở xa có hiểu cho nỗi khổ của chị không? Chính vì thế mà người chị ngày một tiều tụy, chị "gầy xọp đi ... như vừa bị cơn sốt rét rừng đánh quỵ" [7]; khi đi bên cạnh hai người chồng, đôi mắt chị lúc nào cũng đăm chiêu, buồn bã. Người phụ nữ dân tộc ấy đã không ngần ngại nhận về mình những nỗi đau khổ, dày vò, nguyện hi sinh hạnh phúc của cá nhân mình để đổi lấy hạnh phúc cho mọi người. Tấm lòng vị tha, cao cả, đức hi sinh của cô đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc, khó phai.
Trong truyện ngắn Đốm sáng, nhà văn cũng chú ý miêu tả ngoại hình nhân vật Tâm. Mười chín tuổi, Tâm là một thiếu nữ xinh đẹp với đôi má bầu bĩnh, trắng hồng, với sống mũi cao, thẳng...và đặc biệt là đôi mắt với hàng "lông mày thanh, vừa đen lại vừa cong, đôi hàng mi dài như mí mắt con búp bê" [29]. Nhưng cũng chính đôi mắt ấy lại là nỗi buồn và sự mặc cảm suốt mười chín năm qua của Tâm. Từ lúc được mẹ sinh ra, đôi mắt Tâm đã không nhìn thấy, "một tấm màn đen đã bịt kín, che khuất mất tuổi trẻ và những ước mơ của cô [29].