Khái Niệm Về Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp

cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.”(8)

Cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa, xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa. Trong sản xuất hàng hóa, sự tách biệt tương đối giữa người sản xuất, sự phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển...nhằm giảm mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết để thu được nhiều lãi. Khi còn sản xuất hàng hóa, còn phân công lao động thì còn có cạnh tranh.

Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc nhà sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ, kém phát triển.

1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao giữa các học giả, các nhà chuyên môn về khái niệm cũng như cách đo lường, phân tích năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia, cấp ngành và doanh nghiệp.

Trong tác phẩm của mình, Micheal Porter cũng thừa nhận, không thể đưa ra một định nghĩa tuyệt đối về khái niệm năng lực cạnh tranh. Theo ông, “ Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng khác biệt hóa sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi


(8) Nguồn: Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả Nguyễn Vĩnh Thanh, trang15-16, Nxb Lao động - Xã hội 2005.

hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hóa hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn” (9).

Quan niệm của Micheal Porter đã đề cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh còn bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Nói cách khác, doanh nghiệp phải liên tục duy trì mức lợi nhuận trên cơ sở bám sát với nhịp độ phát triển của thị trường hoặc thậm chí chủ động tạo lập nên sự phát triển của thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Khi đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, phần lớn các tác giả đều gắn sức cạnh tranh doanh nghiệp với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc gắn sức cạnh tranh với vị trí của doanh nghiệp trên thị trường theo thị phần mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức, quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Tổ chức UNCTAD của Liên Hợp Quốc cho rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực của doanh nghiệp trong việc giữ vững và tăng thị phần của mình một cách vững chắc hay năng lực hạ giá thành hoặc cung cấp sản phẩm bền, đẹp, rẻ của doanh nghiệp.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 4

Theo Dự án cải cách thể chế để phát triển kinh doanh VIE 01/025, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước.

Theo tác giả Nguyễn Vĩnh Thanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước.(10)

Như vậy, qua các khái niệm trên, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là khả năng mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của mình một cách lâu dài


(9) Nguồn: The Competitive Advantage of Nation, tác giả Micheal Porter, tr 10, Nxb The Free Press 1990.

(10) Nguồn: Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả Nguyễn Vĩnh Thanh, trang 26, Nxb Lao động - Xã hội 2005.

và bền vững trên thị trường bằng cách tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, giá thành hợp lý, cách bán thuận tiện và thu được mức lãi mong muốn.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia. Một nước có năng lực cạnh tranh quốc gia cao thì nước đó có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh. Ngược lại, để doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thì môi trường kinh doanh, chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, dự báo được, nền kinh tế ổn định và bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào sức mạnh của bản thân doanh nghiệp và môi trường kinh doanh trong đó doanh nghiệp hoạt động.

1.3.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp:

a. Các nhân tố môi trường vĩ mô:

Một doanh nghiệp không thể tồn tại độc lập mà hoạt động trong mối quan hệ hữu cơ với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài có tác động qua lại tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy khi phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần phân tích các yếu tố môi trường vĩ mô.


- Nhân tố môi trường chính trị - pháp lý:

Các nhân tố chính phủ, pháp luật và chính trị tác động đến doanh nghiệp theo các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội, trở ngại, hay thậm trí là rủi ro thực sự cho doanh nghiệp. Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Tính ổn định và chặt chẽ của nó có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Việc hiểu rõ pháp luật và nắm bắt kịp thời những thay đổi trong cơ chế, chính sách để có thể điều chỉnh thích nghi với điều kiện mới yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp.

- Các nhân tố về kinh tế:

Tình hình kinh tế trong nước và thế giới có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế ổn định, tiền tệ ổn định, lạm phát ở mức kiểm soát được sẽ tạo ra môi trường kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp. Kinh tế tăng trưởng ổn định làm thu nhập dân cư tăng, khả năng thanh toán tăng dẫn tới sức mua tăng, đây là động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển sản xuất. Ngược lại, nếu nền kinh tế bất ổn, lạm phát tăng cao, đồng tiền mất giá, sức mua của người dân giảm sút, gia tăng áp lực cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đối phó với nhiều khó khăn để có thể tồn tại.

- Các xu hướng phát triển trên thế giới có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp:

Hội nhập kinh tế thế giới và xu hướng toàn cầu hóa là xu thế tất yếu hiện nay. Hoạt động trong một môi trường rộng lớn hớn mở ra những cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức và rủi ro. Doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh với đối thủ nhiều kinh nghiệm ở các nước phát triển. Do đó, để tồn tại thì doanh nghiệp không thể đứng ngoài cuộc mà phải nỗ lực để bắt kịp đối thủ, đồng thời tìm ra những cách thức để nâng cao năng lực cạnh tranh, vượt qua được đối thủ của mình.

- Nhân tố văn hóa- xã hội:

Nhân tố văn hóa- xã hội tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân. Vì vậy, việc tìm hiểu kĩ yếu tố này, nắm bắt xu hướng tiêu dùng để đưa ra quyết định kinh doanh là yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp.


b. Các nhân tố môi trường vi mô:

- Đối thủ cạnh tranh hiện tại:

Đây là đối thủ đe dọa trực tiếp đến doanh nghiệp. Mỗi một hoạt động của đối thủ cạnh tranh trong ngành sẽ tác động trực tiếp đến doanh nghiệp.

- Đối thủ cạnh tranh tiềm năng:

Đây là những đối thủ chưa xuất hiện trên thị trường nhưng sẽ gia nhập trong tương lai.

- Đối thủ cạnh tranh ngẫu nhiên:

Đây là những đối thủ tạo ra sản phẩm có tính năng thay thế từ các ngành khác do thành tựu của khoa học công nghê mang lại. Đây là đối thủ bất ngờ và khó dự đoán nhất.

1.3.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp

- Năng lực tài chính:

Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính v.v… trong doanh nghiệp. Trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn. Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu để doanh nghiệp thực hiện ý tưởng kinh doanh, duy trì hoạt động sản xuất một cách chắc chắn. Vị thế tài chính của một doanh nghiệp có tầm quan trọng tối cao trong việc nâng cao vị thế cạnh tranh của mình. Doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính sẽ có lợi thế trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, từ nó tận dụng được tính hiệu quả nhờ quy mô.

- Năng lực sản xuất:

Trong cùng một ngành, nếu doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm với chất lượng tốt hơn hoặc áp dụng công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất, giảm chi phí sản xuất so với đối thủ sẽ thu hút được khách hàng và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Doanh nghiệp nào năng lực sản xuất thấp, chí phí sản xuất cao sẽ bị đào thải hoặc phải chấp nhận lợi nhuận thấp, thua thiệt trong cạnh tranh với các đối thủ.

- Nguồn nhân lực:

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh nghiệp dựa trên các nguồn lực: nhân lực, nguồn lực tài chính, vật chất...trong đó nguồn lực con người tạo ra động lực cho sự phát triển các nguồn lực khác, các nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng phải thông qua nguồn lực con người. Xu thế của lợi thế cạnh tranh trong tương lại không còn phụ thuộc nhiều vào tài nguyên, vốn, mà bắt đầu tùy thuộc rất lớn vào hàm lượng tri thức chứa đựng trong giá trị sản phẩm. Các nhân tố về con người luôn được coi là lợi thế cạnh tranh không thể sao chép. Nếu doanh nghiệp tập hợp được nhiều người tài, có tầm nhìn xa, tâm huyết với công việc và nhanh nhạy trước những biến đổi thị trường... thì

doanh nghiệp đó đang nắm giữ những nguồn lực quí, là chìa khóa cho thành công và sự phát triển bền vững của mình.

- Năng lực marketing của doanh nghiệp:

Hoạt động marketing giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm đến với khách hàng. Sức cạnh tranh được tạo bởi hoạt động marketing và bán hàng hết sức to lớn. Chất lượng lao động phục vụ bán hàng cũng là yếu tố nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo thiện cảm với người tiêu dùng, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp.

- Hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp:

Hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tìm ra công nghệ mới, ứng dụng công nghệ mợi tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường như: phát triển sản phẩm mới, qui trình sản xuất mới nhằm giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hoạt động này có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp.

- Các chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp:

Là các chiến lược kinh doanh tổng hợp và chiến lược yếu tố giải quyết từng vấn đề kinh doanh để thực hiện chiến lược tổng quát. Chiến lược cạnh tranh đưa ra giải pháp biến nguồn lực của doanh nghiệp thành sức cạnh tranh nhằm vượt qua đối thủ cạnh tranh.

- Trình độ thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp:

Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Ngoài ra, một yếu tố không thể không nhắc đến đó là trình độ ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ thông tin là một thành quả quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật mang lại. Việc ứng dụng công nghệ thông tin có thể giúp doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động, mở rộng kênh phân phối và quảng bá sản phẩm ra khắp thế giới. Do vậy doanh nghiệp nào nhận thức được vai trò của công nghệ thông tin và đầu tư

thích đáng sẽ bắt kịp với xu hướng kinh doanh điện tử và có lợi thế cạnh tranh so với đối thủ.

2. Chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp .v.v... một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.

Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vấn đề cơ bản là doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như: marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin...Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến thương mại; năng lực nghiên cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp; trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần; vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.

2.1. Chỉ tiêu định lượng

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá tổng thể qua các chỉ tiêu định lượng như:

- Sản lượng sản phẩm sản xuất ra, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ:

Sản lượng sản phẩm sản xuất ra và doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ thể hiện năng lực đầu ra của doanh nghiệp. Sản lượng và doanh thu cao thể hiện khả năng duy trì và giữ vững thị phần của doanh nghiệp.

- Thị phần của doanh nghiệp:

Thị phần chính là phần thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm được. Thị phần của doanh nghiệp là chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ, khả năng chấp nhận của thị trường với sản phẩm của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn thể hiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh.

- Tỷ suất lợi nhuận:

Tỷ suất lợi nhuận được đo bằng tỷ lệ giữa lợi nhuận doanh nghiệp thu được với chi phí, doanh thu, tài sản hoặc vốn của doanh nghiệp bỏ ra để thu được khoản lợi nhuận đó. Có các loại tỷ suất lợi nhuận như: tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (tính bằng lợi nhuận ròng chia cho vốn chủ sở hữu), tỷ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu (tính bằng lợi nhuận chia cho doanh thu), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (tính bằng lợi nhuận chia cho tổng tài sản của doanh nghiệp). Đây là các chỉ số tài chính để chỉ ra liệu tình trạng tài chính của một công ty có được cải thiện hơn không hay xấu đi theo thời gian, đồng thời cũng tiết lộ các điểm mạnh và điểm yếu tương đối của một công ty so với các công ty khác trong cùng một ngành.

2.2. Chỉ tiêu định tính

Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên còn có tiêu chí định tính như:

- Chất lượng hàng hóa, dịch vụ so với đối thủ cạnh tranh:

Chất lượng sản phẩm tác động trực tiếp đến người tiêu dùng nên nó quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó đảm bảo cho doanh nghiệp mở rộng được thị trường, tiêu thụ sản phẩm nhiều hơn đảm bảo thu hồi vốn nhanh để sản xuất.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 11/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí