Các Nghiên Cứu Về Tác Động Của Tính Thanh Khoản Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Doanh Nghiệp Khi Đo Lường Tính Thanh Khoản Theo Cả Tỷ Lệ Truyền Thống


thực hiện. Và thu nhập ròng đo lường theo tỷ lệ truyền thống có thể tăng nhưng dòng tiền của DN lại giảm, thậm chí âm, tức khả năng thanh khoản ở tình trạng yếu kém. Bài viết đã cho thấy một số chỉ tiêu truyền thống khác biệt về ý nghĩa kinh tế với các chỉ tiêu về dòng tiền, ví dụ kết quả giữa CR và CFR. Do đó, tác giả đề xuất phân tích TTK của một DN cần dựa trên các chỉ tiêu truyền thống được so sánh với chỉ tiêu về dòng tiền trước khi đưa ra bất kỳ kết luận nào về vị trí thanh khoản tài chính.

Eyisi and Okpe (2014) đã nghiên cứu tác động của các chỉ tiêu dòng tiền đến hiệu suất của DN. Sự dịch chuyển dòng tiền trong BC LCTT đánh giá đúng hơn khả năng tồn tại và TTK của DN. Mọi mức thiếu hụt dòng tiền đã được báo cáo và thể hiện đầy đủ trong BC LCTT. Do đó, BC LCTT nên được coi là một công cụ được sử dụng để đánh giá HQHĐ của DN. Trong nghiên cứu của mình, Eyisi và Okpe đã chỉ ra các hạn chế của các chỉ tiêu truyền thống khi được sử dụng để đánh giá khả năng thanh khoản của DN. Và để xác định xem liệu BC LCTT có thể đóng vai trò là công cụ tốt hơn để đo lường HQHĐ của DN hơn các BCTC đo lường theo cơ sở dồn tích, liệu các chỉ tiêu dòng tiền có thể hữu ích hơn trong việc dự đoán TTK và khả năng tồn tại của các DN so với các chỉ tiêu đo lường theo tỷ lệ truyền thống hay không. Từ các tỷ lệ được tính toán, có thể thấy rằng tỷ lệ thanh khoản được tính toán dựa trên các tỷ lệ truyền thống là tích cực và rất cao, tức là một dấu hiệu khả năng thanh khoản tốt. Tuy nhiên, khi tính toán khả năng thanh khoản bằng các chỉ tiêu dòng tiền thì lại bị âm, là do dòng tiền vào không đủ bù đắp dòng tiền ra. Hàm ý của điều này là tổ chức có thể không thể đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán hàng ngày của mình (thiếu hụt tiền) và điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của nó và có thể dẫn đến sự phá sản của DN. Nghiên cứu này kết luận rằng để quản lý tổ chức và đưa ra quyết định chính xác thì DN nên sử dụng các tỷ lệ tính toán trên tỷ lệ dòng tiền. Các thông số đó sẽ mang lại thông tin tốt hơn về hiệu suất của DN liên quan đến khả năng thanh khoản; không giống như thông tin do các tỷ lệ tính toán trên tỷ lệ truyền thống mang lại vì đó là các chỉ tiêu được sử dụng thông tin trong quá khứ, hầu hết không xem xét đến lạm phát (tức là thay đổi giá trị đồng tiền) khi đánh giá HQTC của DN.

Barua and Saha (2015) lựa chọn các DN phi SX được niêm yết trên sàn GDCK Dhaka và phải được niêm yết trước năm 2000 với số liệu nghiên cứu từ 2001 - 2010. Mục tiêu chính của nghiên cứu nhằm (1) Chứng minh tính hữu ích của các chỉ tiêu dòng tiền. (2) Đề xuất danh sách các chỉ tiêu dòng tiền nên được sử dụng để phân tích tình hình tài chính. Đôi khi thu nhập ròng của DN được cung cấp trên cơ sở kế toán dồn tích có thể thỏa đáng nhưng dòng tiền thuần từ BC LCTT có thể cho người dùng biết bao nhiêu tiền được tạo ra từ hoạt động bán hàng và hoạt động khác. Nếu thu nhập ròng của


DN cao mà hầu hết doanh số bán hàng lại là doanh thu bán chịu (cho khách hàng hưởng chính sách tín dụng) thì đó là một rủi ro của DN, do bị chiếm dụng vốn. Vì vậy, bất kỳ quyết định nào chỉ dựa trên bảng CĐKT và BC KQHĐKD đôi khi có thể bị đánh giá quá cao hoặc đánh giá quá thấp. Nếu thông tin dòng tiền là hữu ích nhưng không được sử dụng, kết luận hợp lý thì người dùng đã không sử dụng dữ liệu có sẵn đúng cách. Tuy nhiên, BC LCTT cũng không cung cấp đầy đủ thông tin để đánh giá TTK và khả năng tồn tại của 1 DN. BC LCTT phải được kết hợp với số liệu trên các BCTC khác để cung cấp một bức tranh đầy đủ về TTK và KNTT của DN. Nó sẽ dẫn đến một dấu hiệu tốt hơn về sức mạnh tài chính và điểm yếu của 1 DN. Đó cũng sẽ là một cảnh báo sớm về tình trạng khó khăn tài chính và nguy cơ phá sản của DN.

Phạm Quang Tin và cộng sự (2017) đã chỉ ra mối quan tâm lớn nhất của nhà quản lý là cân bằng giữa TTK và HQTC của DN, giúp tăng sự giàu có của cổ đông, tối đa hóa lợi ích của DN đồng thời đảm bảo hoạt động của DN được trơn tru và không bị gián đoạn. Các thước đo TTK truyền thống sử dụng số liệu từ bảng CĐKT và BC KQHĐKD từ lâu đã quen thuộc với các nhà phân tích tài chính và người sử dụng BCTC. Gần đây, việc sử dụng các thước đo dựa trên dòng tiền (BC LCTT) đã xuất hiện và mang lại một viễn cảnh mới cho việc đo lường TTK. Các tác giả cố gắng tìm hiểu sự hữu ích của tỷ lệ dòng tiền trong việc hỗ trợ các quyết định tốt hơn cho người sử dụng BCTC trong trường hợp của VN. Bài viết đề cập đến điều này bằng cách khám phá, phân tích TTK của các DNPTCNY sử dụng cả tỷ lệ truyền thống và tỷ lệ dòng tiền để đưa ra kết luận về một dấu hiệu thanh khoản tốt hơn của các DNPTCNY của VN. Dữ liệu được sử dụng là dữ liệu bảng của 254 DNPTCNY trên sàn HOSE của TTCK VN trong giai đoạn 5 năm 2011-2015 với tổng số 1.270 quan sát của 10 ngành với ngành công nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất, 28,7% và công nghệ thông tin chiếm tỷ lệ nhỏ nhất, chỉ 2,4%.

Sau các nghiên cứu nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc cần thiết phải sử dụng các chỉ tiêu dòng tiền để phân tích TTK của DN, Rahman and Sharma (2020) đã tiến hành điều tra ảnh hưởng của CFR đến HQTC của các DN SX và bảo hiểm ở Ả Rập Xê Út. ROA và ROE là 2 BPT đại diện cho HQTC, CFR là BĐL đại diện cho TTK của DN, biến quy mô DN và đòn bẩy kinh doanh có vai trò là các BKS. Mẫu nghiên cứu gồm 10 DN, mỗi lĩnh vực là 5 DN trong giai đoạn từ 2014-2018. Thống kê mô tả, tương quan, hồi quy tổng hợp đã được áp dụng cho phân tích thực nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy CFR có tác động tích cực đáng kể, các BKS có tác động tiêu cực với ROA, ROE. Điều này chứng tỏ sự gia tăng dòng tiền trong các lĩnh vực này sẽ tăng HQTC của chúng.


1.1.3. Các nghiên cứu về tác động của tính thanh khoản đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp khi đo lường tính thanh khoản theo cả tỷ lệ truyền thống và tỷ lệ dòng tiền

Các nghiên cứu trên đã nhấn mạnh vai trò của việc cần thiết phải đo lường TTK theo cả tỷ lệ dòng tiền để cung cấp một bức tranh toàn cảnh hơn, chân thực hơn và chính xác hơn về tình trạng thanh khoản của DN. Dó đó, các nghiên cứu sau này đã tập trung tìm hiểu sự tác động của TTK, theo cả các tỷ lệ truyền thống và theo các tỷ lệ dòng tiền tới HQTC của các DN.

Sanghani (2014) đã nghiên cứu về ảnh hưởng của TTK đối với HQTC của các DNPTCNY tại Sở GDCK Nairobi, với dữ liệu thứ cấp được thu thập từ BCTC của 41 DN từ năm 2009 đến năm 2013. Tác giả sử dụng BPT là ROCE và BĐL là TTK, được đo lường bằng CR và CFR với BKS là cơ cấu vốn. Kết quả nghiên cứu cho thấy 90,8% sự thay đổi về kết quả hoạt động tài chính của các DNPTCNY tại Sở GDCK Nairobi là do sự thay đổi của CR, CFR và cơ cấu vốn. Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các biến được tìm thấy có ảnh hưởng tích cực đến HQTC của DNPTCNY tại NSE, trong đó CR có ảnh hưởng lớn nhất, theo sau là cơ cấu vốn, trong khi CFR có ảnh hưởng ít nhất đến HQTC của các DN đó.

Kong và cộng sự (2019) đã thực hiện nghiên cứu nhằm khám phá sự đánh đổi giữa TTK và HQTC của các DNPTCNY trên Sở GDCK Ghana. Với mẫu nghiên cứu là 15 DN trong giai đoạn từ 2008 đến 2017, tác giả đã sử dụng đồng thời cả chỉ tiêu CAR (theo tỷ lệ truyền thống) và CFR (theo tỷ lệ dòng tiền) để đo lường TTK, trong khi đó HQTC được đo bằng ROCE. Bằng cách sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính cổ điển (CLRM) và sử dụng lý thuyết đánh đổi, các tác giả đã thực hiện nghiên cứu lần lượt 3 giả thuyết. Giả thuyết 1: CFR có ảnh hưởng đáng kể đến ROCE. Giả thuyết 2: CAR có ảnh hưởng đáng kể đến ROCE. Giả thuyết 3: Sự kết hợp giữa CFR và CAR có ảnh hưởng đáng kể đến ROCE. Kết quả hồi quy chỉ ra rằng: CFR có ảnh thưởng tích cực đáng kể đến ROCE (giả thuyết 1 được chấp nhận), CAR lại có ảnh hưởng tiêu cực

- không đáng kể đến ROCE (giả thuyết 2 bị bác bỏ), sự kết hợp giữa CFR và CAR có ảnh hưởng tổng hợp đáng kể đến ROCE (giả thuyết 3 được chấp nhận). Như vậy, nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng của việc các DN cần phải đo lường TTK trên cả tỷ lệ dòng tiền và tỷ lệ truyền thống. Nghiên cứu khuyến nghị, các DN nên giữ mức thanh khoản phù hợp và đạt được sự cân bằng (đánh đổi) giữa TTK và HQTC của chúng. Điều này có thể đạt được nếu các DN giảm bớt số tiền mặt họ nắm giữ và tập trung nhiều hơn vào các khoản đầu tư để có thể thu được lợi nhuận cao hơn.


Vẫn dựa trên lý thuyết đánh đổi với mẫu nghiên cứu như của Kong và cộng sự (2019), là 15 DN phi tài chính được niêm yết trên Sở GDCK Ghana trong giai đoạn từ 2008 đến 2017, Li và cộng sự (2020) đã sử dụng phương pháp GLS thay cho phương pháp CLRM và thay thế ROE cho ROCE, kết quả nghiên cứu lại có khác biệt so với Kong và cộng sự (2019). Các tác giả đã chỉ ra CAR có ảnh hưởng nghịch chiều đáng kể đến ROE, trong khi CFR có ảnh hưởng tích cực – không đáng kể - đến ROE. Ngoài các khuyến nghị như Kong và cộng sự (2019), nghiên cứu khuyến nghị thêm về việc triển khai hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả để có thể kiểm soát và quản lý chặc chẽ hơn tiền mặt của DN.

Các DN vừa ở Serbia là các DN đóng góp chính vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng cũng chính các DN này lại là nguồn chính gây ô nhiễm môi trường. Điều đó đòi hỏi, các DN này phải nâng cao TTK và HQTC của mình, để có đủ nguồn lực cải thiện công nghệ và quy trình SX, giảm bớt nguy cơ gây ô nhiễm, bởi tiến bộ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là một phần liên quan trong quá trình gia nhập EU của Serbia. Vì vậy, Stevanovic và cộng sự (2019) đã thực hiện phân tích tài chính dựa trên mẫu 48 DN có xếp loại gây ô nhiễm môi trường cao trong giai đoạn 2010-2015. Nghiên cứu sử dụng ROA là BPT. TTK được tác giả sử dụng thước đo truyền thống là CR, QR, thước đo dòng tiền là 3 chỉ tiêu dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền thuần từ hoạt động đầu tư và dòng tiền thuần từ hoạt động tài chính làm BĐL. Nghiên cứu sử dụng phương pháp OLS với dữ liệu mảng không cân bằng. Kết quả cho thấy tác động tích cực đáng kể của QR đến ROA, CFR tác động tiêu cực đến ROA, dòng tiền thuần từ hoạt động đầu tư có tác động tích cực đến ROA còn CR và 2 chỉ tiêu dòng tiền còn lại không có tác động đến ROA.

Theo Pordea và cộng sự (2020), chất lượng công trình và danh tiếng tốt trên thị trường chính là những yếu tố làm nên sự thành công của một DN XD. Và để minh chứng cho chất lượng của các dự án, thì mỗi dự án đều bị giữ lại một số tiền trên tổng thanh toán. Điều đó ảnh hưởng đến KNTT và dòng tiền của DN. Thiếu tiền mặt là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong việc XD các dự án. Vì vậy Pordea và cộng sự (2020) đã tiến hành phân tích tác động của CFR và CR đến HQTC (đo lường bằng ROE) của các DN XD. Một mô hình hồi quy tuyến tính dựa trên dữ liệu tài chính chéo của 29 DN chỉ trong năm 2017 của các DN XD ở miền tây Romania. Các tác giả đã không thu được kết quả có ý nghĩa thống kê nào đối với các biến được sử dụng. Một trong các giới hạn của nghiên cứu là do các tác giả chỉ sử dụng dữ liệu tài chính trong một năm tài chính duy nhất. Nếu dữ liệu mảng cho nhiều năm tài chính được sử dụng, kết quả nghiên cứu có thể có chiều hướng khác.


Bảng 1.1: Tổng hợp các bằng chứng thực nghiệm về tác động của tính thanh khoản đến hiệu quả tài chính


BĐL

Kết quả

Tác giả


CR


+

Bibi and Amjad (2017); Ehiedu (2014); Demirgünes (2016); Janjua và cộng sự (2016); Ismail (2016);

Podilchuk (2013); Khidmat and Redman (2014);

Alagathurai (2013); Sanghani (2014); Umobong (2015)

-

Irawan and Faturohman (2015); Bagchi and Chakrabarti (2014); Saleem and Rehman (2011); Eljelly (2004)

(+) & (-)

Bhunia và cộng sự (2011); Oishi (2016)


N/A

Thuraisingam (2015); Sharma and Kumar (2011); Reddy and Narayan (2018); Saleem and Rehman (2011); Azhar (2015); Ben-Caleb và cộng sự (2013); Md Yusof (2017); Stevanovic và cộng sự (2019); Pordea và cộng sự (2020)


QR


+

Janjua và cộng sự (2016); Ismail (2016); Podilchuk (2013); Alagathurai (2013); Khidmat and Redman

(2014); Saleem and Rehman (2011); Umobong (2015); Md Yusof (2017); Stevanovic và cộng sự (2019)

-

Irawan and Faturohman (2015); Bolek and Wili’nski (2011); Bagchi and Chakrabarti (2014)


N/A

Ehiedu (2014); Thuraisingam (2015); Reddy and

Narayan (2018); Saleem and Rehman (2011);

Alagathurai (2013); Azhar (2015)


CAR

+

Ismail (2016)

-

Bagchi and Chakrabarti (2014); Li và cộng sự (2020)

(+) & (-)

Bhunia và cộng sự (2011)

N/A

Azhar (2015); Kong và cộng sự (2019)


CCC

+

Ismail (2016)


-

Bibi and Amjad (2017); Irawan and Faturohman (2015); Bolek and Wili’nski (2011); Bagchi and Chakrabarti (2014)

(+) & (-)

Wang (2002); Oishi (2016)

N/A

Podilchuk (2013); Sharma and Kumar (2011). Ware (2015); Ben-Caleb và cộng sự (2013); Eljelly (2004)


CFR

+

Rahman and Sharma (2020); Sanghani (2014); Kong và cộng sự (2019)

-

Stevanovic và cộng sự (2019)

N/A

Li và cộng sự (2020); Pordea và cộng sự (2020)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

Tác động của tính thanh khoản đến hiệu quả tài chính của các Công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 5


Nguồn: Tổng hợp của tác giả Ghi chú: Dấu (+): tác động tích cực; dấu (-): tác động tiêu cực; dấu (+)&(-):

vừa tác động tích cực, vừa tiêu cực; N/A: không có tác động hoặc có tác động nhưng không có ý nghĩa thống kê

1.2. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu

1.2.1. Những vấn đề đã được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án

Nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã nhận thấy tầm quan trọng của TTK đến HQTC của các DN nói chung và các DNPTCNY nói riêng. Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm xem xét mức độ ảnh hưởng của TTK đến HQTC của các DN. Hầu hết, các nghiên cứu đều đã đề cập đến các nội dung sau:

- Các nghiên cứu được thực hiện trên nhiều quốc gia, nhiều nền kinh tế khác nhau nên đã tái hiện được bức tranh nhiều màu sắc, nhiều biến động và đa dạng về tác động của TTK đến HQTC của các DN;

- Ở góc độ kế toán theo tỷ lệ truyền thống, các nghiên cứu trên thế giới đã tập trung tìm hiểu tương đối đầy đủ các thước đo khác nhau của TTK (CR, QR, CAR, CCC) đến HQTC, và tìm ra nhiều mối tương quan khác nhau: thuận chiều, nghịch chiều, hỗn hợp và thậm chí là không có tác động đến HQTC của DN;

- Để đo lường HQTC của DN, các tác giả tập trung vào 2 thước đo chủ yếu là ROA, ROE, có 1 số rất ít các nghiên cứu đo lường HQTC bằng ROI, ROCE, và có nghiên cứu của Wang (2002) sử dụng chỉ tiêu giá trị thị trường Tobin’Q;

- Một số nghiên cứu đã đề cập đến cơ sở lý thuyết giải thích tác động của TTK đến HQTC của DN như Hà Đức Hiếu (2014), Umobong (2015), Orshi (2016), Kong và cộng sự (2019), Li và cộng sự (2020), Ismail (2016) và Md Yusoff (2017);

- Để thực hiện nghiên cứu, các tác giả đều sử dụng dữ liệu thứ cấp thu được từ các BCTC của mẫu nghiên cứu. Do đó, các nghiên cứu này đều sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, thông qua mô hình hồi quy OLS, FEM, REM hoặc GLS.

1.2.2. Khoảng trống nghiên cứu

Dựa trên tổng quan các nghiên cứu, tác giả nhận thấy, tại VN, còn tồn tại nhiều khoảng trống khi nghiên cứu về tác động của TTK đến HQTC của các DN mà các nhà nghiên cứu cần phải được lấp đầy.


Thứ nhất: Các nghiên cứu trước đó mới chỉ tập trung vào xem xét tác động của TTK theo tỷ lệ truyền thống đến HQTC của các DN. Gần đây, các tác giả mới nhận thấy vai trò quan trọng của việc xem xét TTK theo tỷ lệ dòng tiền thông qua một số phân tích của Kirkham (2012), Atieh (2014), Eyisi and Okpe (2014), Barua and Saha (2015), Phạm Quang Tin và cộng sự (2017). Trên thế giới, đã có một số nghiên cứu mới thực hiện xem xét tác động của TTK theo cả tỷ lệ truyền thống và tỷ lệ dòng tiền đến HQTC của DN. Các nghiên cứu tương tự chưa được thực hiện tại VN.

Thứ hai: Kết quả nghiên cứu của các tác giả vẫn còn nhiều tranh cãi. Trên thế giới, hiện đang tồn tại bốn kết quả trái ngược nhau về tác động của TTK đến HQTC của DN. Còn tại VN, cùng nghiên cứu tại các DNPTCNY trên Sở GDCK TP HCM, nhưng có tác giả tìm thấy tác động nghịch chiều của CCC đến HQTC trong khi các tác giả khác lại không tìm thấy bất kỳ tác động của TTK đến HQTC của các DN. Như vậy, cần có một nghiên cứu tổng quát đối với tất cả các DNPTCNY trên cả sàn GDCK Hà Nội và sàn GDCK Hồ Chí Minh, để xác định tác động của TTK đến HQTC của các DN VN.

Thứ ba: Hầu hết các nghiên cứu đều đo lường HQTC trên góc độ quá khứ, thông qua một số chỉ tiêu sinh lời như ROA, ROE, trong khi đó, số lượng các DN cổ phần ngày càng tăng, vốn hóa thị trường ngày càng lớn. Các NĐT không chỉ cần đánh giá HQTC của DN thông qua số liệu quá khứ, mà các chỉ tiêu giá trị thị trường, phản ánh HQTC trong tương lai của DN phải được các NĐT quan tâm nhiều hơn. Và tại VN, chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu về tác động của TTK đến giá trị thị trường của DN, tức sử dụng chỉ tiêu Tobin’Q để đo lường HQTC của các DNPTCNY trên TTCK VN.

Thứ tư: Các nghiên cứu trước đó đều không sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để khai khá hoặc củng cố lại kết quả nghiên cứu định lượng. Trong nghiên cứu khoa học, việc sử dụng đồng thời cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng sẽ giúp các kết luận trở nên logic và phù hợp với thực tiễn.

Từ việc kế thừa các kết quả và thành tựu nghiên cứu trước của các tác giả và dựa vào khoảng trống nghiên cứu, luận án này tiếp tục nghiên cứu tác động của TTK đến HQTC của các DN theo các hướng nghiên cứu sau:

(1). Luận án sẽ thực hiện xem xét tác động của TTK đến HQTC của các DNPTCNY trên TTCK VN đồng thời trên cả 2 góc độ đo lường TTK là tỷ lệ truyền thống và tỷ lệ dòng tiền. Điều này vừa giúp đánh giá đúng thực trạng của TTK, vừa giúp nhà quản trị xác định được chỉ tiêu nào là hữu ích hơn để đo lường TTK đối với các DNPTCNY trên TTCK VN;


(2). Luận án sẽ thực hiện đo lường HQTC theo cả thước đo cổ điển (đo lường theo giá trị kế toán) thông qua các chỉ tiêu sinh lời ROA, ROE, ROS và thước đo hiện đại (đo lường theo giá trị thị trường) là Tobin’Q;

(3). Luận án sẽ sử dụng đồng thời cả phương pháp nghiên cứu định lượng và phương pháp nghiên cứu định tính để thực hiện nghiên cứu của mình. Tác giả sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để đo lường MĐTĐ của TTK đến HQTC, sau đó sẽ sử dụng phương pháp định tính để phân tích và kiểm định lại kết quả nghiên cứu định lượng xem có phù hợp với thực tiễn quản trị hay không;

(4). Luận án không chỉ sử dụng các phương hồi quy REM, FEM mà còn sử dụng phương pháp hồi quy GLS để lựa chọn mô hình tối ưu nhất khắc phục được các khuyết tật của mô hình;

(5). MĐTĐ của TTK đến HQTC của DN sẽ thay đổi phụ thuộc vào DN đó thuộc ngành nghề nào, có quy mô ra sao, mức độ tăng trưởng như thế nào. Do đó, luận án sẽ xem xét MĐTĐ của TTK đến HQTC giữa các ngành, các quy mô, các mức độ tăng trưởng khác nhau thì có khác nhau hay không.

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 09/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí