Cơ Sở Lý Luận Về Tác Động Của Tính Thanh Khoản


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Phần tổng quan, tác giả đã tổng quan các nghiên cứu trước đây trên cả thế giới và ở tại VN về tác động của TTK đến HQTC của các DN. Để cung cấp bức tranh tổng quát và đầy đủ nhất, tác giả đã tiến hành tổng quan theo 2 góc độ, gồm cả các nghiên cứu tập trung đo lường TTK theo các tỷ lệ truyền thống, gồm các chỉ tiêu CR, QR, CAR, CCC và gồm cả các nghiên cứu đo lường TTK theo tỷ lệ dòng tiền gồm CFR, CIC và CNCC.

Các nghiên cứu trước đó, hầu hết chỉ tập trung vào nghiên cứu tác động của TTK đến HQTC khi đo lường TTK theo tỷ lệ truyền thống. Gần đây, có một vài nghiên cứu đã nhấn mạnh và khẳng định vai trò của việc cần thiết phải đo lường TTK theo tỷ lệ dòng tiền. Do đó, có 1 số ít nghiên cứu đã xem xét tác động của TTK tới HQTC trên góc độ tỷ lệ dòng tiền.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, TTK có tác động đa chiều đến HQTC của DN, tùy thuộc vào từng nền kinh tế, từng quốc gia, từng thời điểm và theo từng loại thước đo. Đó có thể là sự tác động thuận chiều, có thể là nghịch chiều, có thể là hỗn hợp và thậm chí là có nghiên cứu không tìm thấy tác động nào của TTK đến HQTC của DN.

Thông qua việc tổng quan các nghiên cứu trước đó, chỉ ra các vấn đề đã được đề cập đến trong các nghiên cứu trước, tác giả đã tìm ra các khoảng trống của vấn đề chưa được nghiên cứu tại VN, từ đó, tác giả hình thành các hướng nghiên cứu tiếp theo được thực hiện trong luận án của tác giả.


CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TÍNH THANH KHOẢN

ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.


2.1. Lý luận về tính thanh khoản của doanh nghiệp

Tác động của tính thanh khoản đến hiệu quả tài chính của các Công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 6

2.1.1. Bản chất của tính thanh khoản

Tất cả các đối tác có liên quan đều quan tâm đến TTK của một DN. Đối với ngân hàng, TTK của DN có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay. Khi xem xét, thẩm định hồ sơ vay vốn, ngân hàng luôn chủ trọng đến các chỉ tiêu phản ánh TTK của DN. DN sẽ khó tiếp cận được các nguồn vốn vay ưu đãi, thậm chí là không thể vay được vốn, nếu như các số liệu trên BCTC thể hiện TTK kém. Đối với nhà cung cấp, việc quyết định nên áp dụng chính sách tín dụng nào khi bán chịu cho DN được thể hiện qua KNTT các lô hàng trước đó và KNTT tiếp tục các lô hàng sau này. Khi DN rơi vào tình trạng TTK kém, không có tiền để trả nợ cho nhà cung cấp thì sẽ lâm vào cảnh vỡ nợ. Khoảng cách giữa vỡ nợ và phá sản chỉ là vấn đề thời gian. Bởi các nhà cung cấp có thể nộp đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản để thanh lý tài sản trả nợ. Người lao động quan tâm đến TTK của DN khi họ muốn biết liệu DN có thể đáp ứng các nghĩa vụ: tiền lương, phụ cấp, thưởng,..như đã giao ước trong hợp đồng lao động hay không?

Vai trò của TTK càng quan trọng hơn đối với các cổ đông, hay là các CSH. Việc thiếu TTK thường báo trước HQTC của DN thấp và nhiều rủi ro, ít cơ hội. Nó không chỉ tác động đến lợi nhuận đầu tư mà còn có thể khiến các CSH mất đi quyền kiểm soát DN hoặc mất vốn đầu tư. Nếu loại hình DN là DN tư nhân hoặc CSH là thành viên hợp danh của DN hợp danh, các CSH chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của DN, thì việc thiếu TTK còn đe dọa nghiêm trọng đến các tài sản cá nhân của chính CSH. Trong TTCK, một DN có TTK kém, còn được thể hiện qua việc DN gặp khó khăn trong việc bán cổ phiếu, nghĩa là khó huy động vốn từ thị trường tài chính bên ngoài.

Vì vậy, một DN nhất định cần phải quan tâm và duy trì TTK ở một mức độ tối ưu (Owalabi và cộng sự, 2011). Một DN không có khả năng đáp ứng các khoản NNH có thể ảnh hưởng đến hoạt động của DN và trong nhiều trường hợp nó có thể ảnh hưởng đến danh tiếng của những DN đó. Lượng tiền mặt hoặc tài sản lưu động không đủ có thể khiến một DN bỏ lỡ các ưu đãi được đưa ra bởi các nhà cung cấp tín dụng, dịch vụ và hàng hóa tốt. Mất ưu đãi như vậy có thể dẫn đến chi phí cao hơn của hàng hóa sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của DN. Theo một nghĩa nào đó, khi DN thiếu hụt TTK có nghĩa là DN đó không thể tận dụng được các ưu đãi hoặc đón nhận các cơ hội kinh doanh khi chúng đột ngột xuất hiện (Wang, 2002). TTK là điều kiện tiên quyết để đảm bảo DN


thanh toán các khoản NNH và chính dòng chảy liên tục của nó sẽ đảm bảo một DN kinh doanh có lợi nhuận (Bibi and Amjaad, 2017).

Vì vậy, Shim and Siegel (2000) xác định TTK của DN là KNTT các khoản NNH của DN. TTK được xác định bởi sự dễ dàng, chi phí và tốc độ mà tài sản có thể được chuyển đổi sang tiền mặt. Tiền mặt là tài sản có tính linh hoạt nhất trong tất cả tài sản của DN. Việc quản lý TTK là DN phải lưu trữ đủ tiền mặt và tài sản có TTK cao, đồng thời phải có khả năng kịp thời huy động vốn từ các nguồn khác để kịp thời thanh toán và thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Một mức thanh khoản tối ưu là mức mà DN đảm bảo đủ để thanh toán được các khoản NNH mà không làm suy giảm lợi nhuận (trích dẫn trong Ismail, 2016).

Eljelly (2004) đã giải thích rằng việc quản lý TTK hiệu quả bao gồm lập kế hoạch và kiểm soát tài sản ngắn hạn (TSNH), NNH theo cách thức giúp các DN loại bỏ rủi ro không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ hiện tại cũng như tránh đầu tư quá nhiều vào các tài sản này. Stickney (1996) đã đưa ra định nghĩa: “KNTT là khả năng một DN thanh toán các khoản nợ hiện tại của mình bằng cách sử dụng tiền mặt tạo ra từ các HĐKD”.

Theo tác giả, TTK của DN chính là KNTT các khoản nợ đến hạn một cách đầy đủ, kịp thời, thể hiện qua giá trị các tài sản lỏng mà DN nắm giữ và khả năng chuyển đổi các tài sản này thành tiền. Nếu giá trị các tài sản lỏng của DN nắm giữ càng nhiều và khả năng chuyển đổi chúng thành tiền càng dễ dàng, càng thuận tiện thì TTK của DN càng cao và ngược lại. Các tài sản lỏng chính là các tài sản có TTK cao, bao gồm: tiền và các khoản tương đương tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn, ứng trước ngắn hạn và HTK.

2.1.2. Đo lường tính thanh khoản

TTK của DN được đo lường thông qua các chỉ tiêu trên BCTC của DN, gồm các bảng CĐKT, BC KQHĐKD và BC LCTT. Trong đó, các chỉ tiêu trên Bảng CĐKT và BC KQHĐKD là các chỉ tiêu số liệu kế toán, thể hiện tình hình tài sản, nguồn vốn và kết quả hoạt động của DN trong kỳ đã qua. Còn các chỉ tiêu trên BC LCTT phản ánh sự vận động của tiền, các thông tin về luồng tiền của DN, gồm dòng tiền vào, dòng tiền ra và dòng tiền thuần cuối kỳ. Hay nói cách khác, việc tính toán TTK dựa vào các số liệu trên Bảng CĐKT và BC KQHĐKD là các số liệu được ghi nhận theo tỷ lệ truyền thống, còn các số liệu trên BC LCTT được ghi nhận theo tỷ lệ dòng tiền.

Atieh (2014) đã thực hiện một nghiên cứu nhằm so sánh việc đánh giá tình trạng thanh khoản theo các tỷ lệ truyền thống và theo các tỷ lệ dòng tiền của 07 DN lớn ngành công nghiệp dược phẩm ở Jordan trong khoảng thời gian sáu năm (2007 - 2012). Nghiên


cứu này đã phát hiện có sự khác biệt về tình trạng thanh khoản của các DN dược phẩm giữa đo bằng các tỷ lệ truyền thống và đo bằng các tỷ lệ dòng tiền. Đồng thời một kết luận về TTK của DN chỉ dựa trên các tỷ lệ truyền thống có thể dẫn đến các quyết định không chính xác và các nhà quản trị nên phân tích bằng cả các tỷ lệ dòng tiền trước khi đưa ra kết luận về tình trạng thanh khoản của DN. Kết quả nghiên cứu này đồng nhất với kết quả nghiên cứu của Kirkham (2012).

Tại VN, Phạm Quang Tin và cộng sự (2017) cũng đã thực hiện so sánh việc đo lường TTK bằng các tỷ lệ truyền thống và các tỷ lệ dựa trên dòng tiền của các DNPTCNY trên TTCK của VN. Kết quả chỉ ra rằng có sự khác biệt đáng kể về tình trạng thanh khoản của DN theo các cách đo lường khác nhau.

Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả sẽ đo lường TTK của DN trên cả 2 góc độ

là dựa vào tỷ lệ truyền thống và dựa vào tỷ lệ dòng tiền.

2.1.2.1. Đo lường tính thanh khoản của doanh nghiệp theo tỷ lệ truyền thống

Việc đo lường TTK của DN theo tỷ lệ truyền thống chính là việc tính toán các chỉ tiêu thanh khoản dựa trên số liệu được cung cấp từ Bảng CĐKT và BC KQHĐKD.

Tác giả Nguyễn Đình Kiệm và Bạch Đức Hiển (2010) đưa ra 4 chỉ tiêu đo lường TTK của DN (hay còn gọi là nhóm hệ số KNTT) gồm: (1) Hệ số KNTT hiện thời (CR),

(2) Hệ số KNTT nhanh (QR), (3) Hệ số KNTT tức thời (CAR), (4) Hệ số KNTT lãi vay.

Tác giả Văn Thị Thái Thu và cộng sự (2015) cũng chỉ ra 4 chỉ tiêu dùng để đo lường TTK của DN, trong đó 3 chỉ tiêu (1), (2), (3) giống của các tác giả Nguyễn Đình Kiệm và Bạch Đức Hiển (2010), chỉ tiêu thứ tư thay bằng CCC.

Theo Demirgünes (2016), Mun and Jang (2015): CR là thước đo TTK tối ưu nhất, nhưng Eljelly (2004) lại cho thấy CCC có tầm quan trọng lớn hơn so với CR khi đo lường TTK. Podilchuk (2013) lại sử dụng cả 3 chỉ tiêu: CR, QR và CCC để xem xét tác động của TTK đến lợi nhuận của các DN ở Ukraine, trong khi Thuraisingam (2015) lại chỉ sử dụng CR, QR để đo lường TTK khi xem xét ảnh hưởng của TTK đến lợi nhuận của các DN ở Sri Lankan.

Kế thừa nghiên cứu của Văn Thị Thái Thu và cộng sự (2015), Eljelly (2004), Podilchuk (2013), tác giả sẽ sử dụng 4 chỉ tiêu: (1) CR, (2) QR, (3) CAR, (4) CCC để đo lường TTK theo tỷ lệ truyền thống của các DN.


Theo các nghiên cứu của Nguyễn Đình Kiệm và Bạch Đức Hiển (2010), Văn Thị Thái Thu và cộng sự (2015), Podilchuk (2013), các chỉ tiêu được xác định như sau:

- Hệ số KNTT hiện thời (Current Ratio – CR)

Hệ số KNTT hiện thời của DN được định nghĩa là MQH giữa toàn bộ TSNH và NNH của DN, được tính như sau:


Hệ số KNTT hiện thời (CR)

Tổng TSNH

=

NNH

CR cho thấy khả năng DN chuyển đổi các TSNH thành tiền để thanh toán các khoản NNH đến hạn trả. Vì vậy DN phải huy động các TSNH hiện DN đang có và tiến hành hoán chuyển các TSNH này thành tiền để thanh toán các khoản nợ phải trả.

Để có thể đánh giá năng lực thanh toán hiện thời của DN cần dựa vào CR trung bình của các DN trong cùng ngành. Bởi giữa các nhóm ngành nghề kinh doanh khác nhau thì sẽ có CR khác nhau. Đồng thời, cũng cần so sánh với CR ở các thời kỳ trước đó của DN.

Nếu CR > 1: TSNH của DN đủ khả năng để chi trả NNH. CR càng cao thì khả năng DN chi trả các khoản nợ là càng lớn, nguy cơ phá sản của DN thấp, tình trạng tài chính tốt. Tuy nhiên nếu CR quá cao cho thấy KNTT dồi dào của DN nhưng lại phản ánh hiệu quả sử dụng vốn thấp do DN đã đầu tư vào TSNH quá nhiều, dẫn đến tình trạng tài chính là không tốt.

Nếu CR < 1: KNTT các khoản nợ vay đến hạn phải trả của DN là không tốt do thiếu nguồn lực đảm bảo KNTT từ TSNH. Tuy nhiên, việc CR < 1 cũng không hẳn là một vấn đề nghiêm trọng, bởi nếu một DN có triển vọng dài hạn tốt, nó có thể vay mượn những khách hàng tiềm năng để đáp ứng nghĩa vụ hiện tại.

Nếu CR tiệm cận đến 0 thì DN rơi vào tình trạng mất KNTT các khoản nợ và có rủi ro bị phá sản.

Nhược điểm của hệ số này là phần tử số (TSNH) gồm nhiều khoản mục tài sản, kể cả những khoản mục tài sản khó có thể hoán chuyển thành tiền như các khoản nợ xấu, nợ phải thu khó đòi, HTK khó tiêu thụ, các khoản thiệt hại chưa xử lý…

- Hệ số KNTT nhanh (Quick Ratio – QR)

Để huy động vốn thanh toán các khoản nợ đến hạn, trước hết DN phải hoán chuyển các TSNH như HTK thành tiền nhưng có những loại HTK chuyên dùng để dự trữ thường xuyên cho hoạt động kinh doanh có thời gian hoán chuyển thành tiền rất lâu,


ví dụ như nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, thành phẩm, hàng hóa,…Do đó, bên cạnh việc sử dụng CR, TTK của DN còn được đo bằng QR. Chỉ tiêu này sẽ đánh giá chặt chẽ hơn KNTT của DN.



Hệ số KNTT nhanh (QR)

Tiền và các khoản tương đương tiền + Đầu tư tài

= chính ngắn hạn + Các khoản phải thu ngắn hạn

NNH


hoặc Hệ số KNTT nhanh (QR)

TSNH – HTK

=

NNH

Nếu QR có giá trị từ trong khoảng (0,5 – 1), nghĩa là DN có KNTT lạc quan. Tuy vậy, để xác định QR của DN là tốt hay không tốt thì đồng thời cần phải xem xét đến hiện trạng hoạt động của DN. Nếu QR < 0,5 thì có thể DN đang gặp khó khăn trong việc huy động vốn để trả nợ, dẫn đến việc DN phải bán nhanh tài sản để trả nợ. Nhưng nếu QR quá cao, có nghĩa lượng tiền dư thừa của DN lớn hoặc các khoản phải thu còn tồn đọng nhiều, đồng nghĩa với hiệu quả sử dụng vốn là không tốt.

- Hệ số KNTT tức thời (Cash Ratio – CAR)

CAR cho biết với số tiền và các khoản tương đương tiền hiện có, DN có thể đảm bảo KNTT kịp thời NNH hay không.


Hệ số KNTT tức thời (CAR)

Tiền và các khoản tương đương tiền

=

NNH

Hệ số này cũng nằm trong khoảng 0,5 đến 1. Tuy nhiên, để xác định hệ số này là tốt hay xấu ở một DN còn cần xem xét đến thực trạng hoạt động của DN. Nhưng hệ số này quá nhỏ thì chắc chắn việc thanh toán nợ của DN hiện gặp khó khăn.

So với các chỉ số CR, QR thì CAR đòi hỏi tính khắt khe hơn. Các khoản phải thu ngắn hạn và HTK không được đưa vào phần tử số do khả năng có thể nhanh chóng chuyển thành tiền để kịp đáp ứng các khoản nợ đến hạn của hai khoản này là tương đối khó và không chắc chắn. Hệ số này đặc biệt hữu ích để đánh giá KNTT của một số DN trong giai đoạn nền kinh tế gặp khủng hoảng khi HTK không tiêu thụ được và nhiều khoản nợ phải thu gặp khó khăn khó thu hồi.


- Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (Cash Conversion Cycle - CCC)

CCC là chỉ tiêu phản ánh khoảng thời gian để DN tiêu thụ HTK, thu hồi các khoản nợ phải thu và thanh toán các khoản nợ phải trả của mình.

Nếu CCC càng nhỏ thì VLĐ bị ứ đọng được giảm đáng kể, làm giảm nhu cầu về VLĐ, nâng cao HQHĐ, tăng TTK cho DN. Công thức tính CCC cụ thể theo nghiên cứu của Richards and Laughlin (1980) và của Afeef (2011):

CCC = ICP + RCP – PDP


Trong đó:

+ ICP (Inventory Conversion Period) - kỳ luân chuyển HTK: phản ánh số ngày của một vòng quay HTK.

ICP = Giá trị HTK bình quân / Giá vốn hàng bán trung bình ngày

+ RCP (Receivable Conversion Period) - kỳ thu tiền bình quân: phản ánh số ngày bình quân của một chu kỳ nợ, từ khi bán hàng đến khi thu tiền.

RCP = Số dư bình quân nợ phải thu của khách hàng/Doanh thu trung bình ngày

+ PDP (Payable Deferral Period) - kỳ trả tiền bình quân: phản ánh số ngày DN cần để thanh toán các khoản phải trả của mình.

PDP = Số dư bình quân nợ phải trả nhà cung cấp / Giá vốn hàng bán trung bình ngày

2.1.2.2. Đo lường tính thanh khoản của doanh nghiệp theo tỷ lệ dòng tiền

Trong nền kinh tế khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch như hiện nay, tiền đóng một vai trò rất quan trọng đối với quá trình hoạt động của DN, đó được xem là trung tâm, là mục tiêu của quá trình SXKD. Một DN có luồng tiền dự trữ nhiều và khả năng tạo ra tiền lớn thì phản ánh năng lực tài chính của DN đó tốt, đảm bảo vượt qua được khủng hoảng, tạo ra sự an tâm cho các NĐT và các bên liên quan. Chính vì vậy, việc đo lường TTK của DN dựa trên tỷ lệ dòng tiền, tức sử dụng số liệu trên BC LCTT, sẽ giúp các nhà quản trị và các NĐT đánh giá chính xác hơn tình trạng thanh khoản của DN.

Theo Võ Văn Nhị và cộng sự (2001), Bùi Văn Vần và Vũ Văn Ninh (2013), Kirkham (2012), Eyisi and Okpe (2014), Barua and Saha (2015), Phạm Quang Tin và cộng sự (2017), các chỉ tiêu đo lường TTK dựa trên tỷ lệ dòng tiền gồm:


- Hệ số đảm bảo thanh toán nợ từ dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh (Cash flow ratio - CFR)

Chỉ tiêu này sử dụng để xem xét khả năng chi trả các khoản NNH của DN thông qua dòng tiền thuần từ HĐKD. Thông qua đó, đánh giá khả năng tạo tiền từ HĐKD của DN có đủ chi trả nợ hay không. Hệ số này càng cao, khả năng trả nợ càng lớn.



CFR =

Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh NNH bình quân

Trong số các DN có NNH bình quân bằng nhau, NĐT sẽ có nhiều khả năng đầu

tư vào DN có tỷ lệ dòng tiền cao hơn. Tỷ lệ này phải ít nhất là 0,4, theo đề xuất của Ryu and Jang (2004). Nếu tỷ lệ dòng tiền nhỏ hơn 1, số tiền DN đã tạo ra ít hơn số NNH cần phải thanh toán. Điều này có thể báo hiệu một nhu cầu cần thêm vốn. Do đó, các NĐT và phân tích thường thích hệ số CFR cao hơn (Sanghani, 2014).

- Hệ số đảm bảo thanh toán lãi vay từ dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh (Cash interest coverage - CIC)

Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng tạo tiền từ HĐKD của DN có đáp ứng được yêu cầu thanh toán lãi vay hay không. Hệ số này cho thấy một cách thực tế hơn về tình hình DN có đủ khả năng trả tiền lãi hay không. Nếu DN có vốn vay nhiều thì hệ số này tính được có giá trị thấp, ngược lại hệ số sẽ có giá trị cao.



CIC =

Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh + Tiền lãi vay đã trả Tiền lãi vay đã trả

Hệ số đảm bảo thanh toán lãi vay từ dòng tiền thuần từ HĐKD không chỉ khác

nhau giữa các ngành mà còn giữa các DN trong cùng một ngành. Đây là một trong số các chỉ tiêu hữu ích để đánh giá tình trạng thanh khoản của một DN. Vì một DN không thể phát triển - và thậm chí không thể tồn tại - trừ khi nó có thể trả lãi cho các chủ nợ của mình. Hệ số này bằng 2 (hai) được coi là con số tối thiểu có thể chấp nhận được đối với một DN có doanh thu ổn định và vững chắc. Nếu dưới một (1) cho thấy một DN không thể đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán lãi vay hiện tại và do đó, tình trạng tài chính không tốt.

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 09/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí