Nhóm Chỉ Tiêu Đánh Giá An Toàn Tài Chính Và Khả Năng Thanh Khoản


- Thu nhập thuần từ lãi.

Đây là khoản thu được từ chênh lệch giữa thu nhập từ lãi với chi phí từ lãi trong một khoảng thời gian. Nói theo cách khác, thu nhập thuần từ lãi và các khoản tương tự là khoản thu từ chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động tín dụng và đầu tư với chi phí tín dụng và chi phí đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định. Để biết hoạt động của NHTM có hiệu quả hay không qua thu nhập thuần từ lãi và các khoản tương tự, tác giả lựa chọn đánh giá các chỉ tiêu liên quan, như:

+ Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần từ lãi .



Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần từ lãi


=

Thu nhập Thu nhập thuần từ lãi - thuần từ lãi

năm N năm N-1


x 100


(2.7)

Thu nhập thuần từ lãi năm N-1

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - 6

Tốc độ tăng giảm thu nhập thuần từ lãi giữa các năm sẽ đánh giá được hoạt động cho vay và đầu tư của ngân hàng đó được mở rộng hay thu hẹp. Từ đó biết được NHTM đó hoạt động có hiệu quả hay không.

+ Tỷ lệ chênh lệch lãi ròng (NIM).


NIM


Thu nhập lãi thuần

x 100

(2.8)

=

Tổng tài sản

NIM là chỉ tiêu được xác định bởi 2 yếu tố là thu nhập lãi thuần và tổng tài sản sinh lời bình quân. Qua đó, NIM một mặt phản ánh thu nhập lãi thuần của NHTM, hay phản ánh sự chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi phí lãi, để cho thấy việc NHTM đó kiểm soát tài sản sinh lời của mình như thế nào để có nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Mặt khác, NIM cũng phản ánh việc tăng trưởng của các nguồn thu của NHTM so với mức tăng chi phí của mình. Nhìn chung, chỉ số này cho biết NHTM sử dụng tổng tài sản sinh lời bình quân có thể thu hồi lại được bao nhiêu đồng thu nhập lãi thuần trong quá trình hoạt động của mình. NIM được sử dụng để đo lường hiệu quả trong việc tạo vốn và sử dụng vốn của NHTM, nói cách khác, NHTM sẽ hy vọng trong quá trình hoạt động của mình thì tỷ lệ NIM sẽ càng lớn càng tốt.

- Thu nhập thuần ngoài lãi.

Đây là khoản thu nhập thuần từ hoạt động phi tín dụng, là khoản chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động phi tín dụng với chi phí từ hoạt động phi tín dụng trong


một thời gian nhất định. Các hoạt động phi tín dụng có tiềm ẩn rủi ro thấp nên các NHTM cần gia tăng được tỷ trọng của khoản thu nhập thuần này trong quá trình hoạt động của mình. Thu nhập thuần ngoài lãi được thể hiện qua một số các chỉ tiêu khi đánh giá hiệu quả của NHTM, như:

+ Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần từ hoạt động phi tín dụng


Tốc độ tăng

trưởng thu nhập thuần ngoài lãi


=

Thu nhập từ HĐ phi - Thu nhập từ HĐ phi tín dụng năm N tín dụng năm N-1


x 100


(2.9)


Thu nhập từ HĐ phi tín dụng năm N-1



Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần ngoài lãi cho thấy khoản thu nhập thuần này tăng/giảm bao nhiêu phần trăm giữa các năm với nhau. Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần ngoài lãi càng tăng chứng tỏ rằng NHTM đang mở rộng được các hoạt động phi tín dụng của họ, ngược lại các NHTM đang hoạt động theo lối truyền thống khi vẫn chú trọng vào phát triển các hoạt động tín dụng của mình.

+ Thu nhập ngoài lãi cận biên (NII)


NII


Thu nhập thuần ngoài lãi

x 100

(2.10)

=

Tổng tài sản

Trong đó:

Thu nhập thuần ngoài lãi: bao gồm các thu nhập thuần từ: hoạt động dịch vụ; hoạt động kinh doanh ngoại hối; mua bán chứng khoán; hoạt động khác; và từ góp vốn; mua cổ phần. Nói cách khác, thu nhập thuần ngoài lãi là tổng thu nhập hoạt động của NHTM sau khi đã loại trừ khoản thu nhập lãi thuần.

Hiện nay ngoài hoạt động truyền thống là hoạt động cho vay với các chủ thể trong nền kinh tế, để nâng cao hiệu quả của mình các NHTM còn phải chú trọng vào các hoạt động về dịch vụ, và đầu tư vào ngoại hối cũng như chứng khoán, vào việc liên doanh liên kết. Tỷ lệ NII sẽ giúp NHTM có cái nhìn tổng quát nhất về việc tạo thu nhập ngoài lãi để gia tăng việc tạo thu nhập cho mình trong quá trình hoạt động. NII càng cao cho thấy rằng NHTM thu được thu nhập ngoài lãi càng lớn.

d. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của NHTM

- Các khoản lợi nhuận: Lợi nhuận của NHTM được chia thành lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế. Các lợi nhuận này được tính dựa trên công thức:


Lợi nhuận trước thuế = Thu nhập - Chi phí (2.11)

Lợi nhuận trước thuế (LNTT) là khoản tiền NHTM thu được sau khi đã trừ đi toàn bộ chi phí mình đã phải chi trả để có được tổng thu nhập từ các hoạt động trong một thời gian nhất định. Khoản tiền này NHTM chưa trừ đi các khoản thuế cần nộp cho ngân sách nhà nước theo luật định.

Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập (2.12)

Lợi nhuận sau thuế (LNST) là tiền có được từ lợi nhuận trước thuế sau khi đã trừ đi các khoản thuế cần nộp cho nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định.

Nhóm chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của NHTM cho biết về quy mô và mức độ tăng trưởng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung qua các thời kỳ để từ đó có những so sánh giữa các thời kỳ với nhau. Nếu thu nhập và chi phí có sự chênh lệch càng lớn thì lợi nhuận thuần từ lãi NHTM thu được sẽ càng cao và ngược lại. Lợi nhuận trước thuế sẽ phụ thuộc lớn vào hai tiêu chí là doanh thu và chi phí, nói cách khác chỉ tiêu này sẽ phụ thuộc mạnh vào thu chi từ lãi cũng như thu chi khác. Đồng thời, lợi nhuận sau thuế sẽ phản ánh về mức sinh lời của NHTM một cách trọng tâm nhất.

- Tốc độ tăng trưởng LNST


Tốc độ tăng

trưởng LNST

LNST năm N - LNST năm N-1

x 100

(2.13)

=

LNST năm N-1

Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng của LNST phản ánh sự tăng/giảm bao nhiêu phần trăm LNST giữa các năm với nhau. Tốc độ này càng cao cho thấy hoạt động của năm sau có hiệu quả hơn so với năm trước đó, và ngược lại.

- Chỉ tiêu đánh giá tỷ suất lợi nhuận

Nhóm chỉ tiêu đánh giá tỷ suất lợi nhuận bao gồm hai nhóm chính là nhóm chỉ tiêu đánh giá tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và nhóm chỉ tiêu đánh giá tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)

+ Chỉ tiêu đánh giá tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)


ROE


Lợi nhuận sau thuế trong kỳ

x 100

(2.14)

=

Vốn chủ sở hữu trong kỳ


ROE cho biết hiệu quả của 1 đồng vốn chủ sở hữu NHTM bỏ ra trong hoạt động kinh doanh của mình, nói cách khác, các cổ đông của NHTM có thể thông qua ROE để biết được hoạt động đầu tư của NHTM đó mang lại bao nhiêu lợi nhuận ròng cho mình. Trong quá trình hoạt động, các NHTM mong muốn đạt được hiệu quả trên 1 đồng vốn chủ sở hữu của mình càng cao càng tốt, có nghĩa là các NHTM hy vọng ROE càng cao càng tốt. Tuy nhiên, nếu ROE lớn hơn ROA nhiều cho thấy rằng vốn tự có của NHTM đang chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn.

+ Chỉ tiêu đánh giá tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)


ROA

Lợi nhuận sau thuế trong kỳ

x 100

(2.15)

=

Tổng tài sản trong kỳ

ROA cho biết hiệu quả sử dụng kinh doanh của 1 đồng tài sản của ngân hàng, hay hiệu quả của đầu tư. Nếu ROA thấp cho thấy rằng NHTM sử dụng tài sản trong đầu tư và cho vay chưa hiệu quả, cơ cấu tài sản của NHTM chưa hợp lý, cần có sự điều chỉnh linh hoạt giữa các hạng mục tài sản. Nếu ROA quá cao cho thấy việc sử dụng tài sản của NHTM đang gặp phải những rủi ro lớn, đang có hoạt động đầu tư mạo hiểm hoặc dự trữ của NHTM thấp quá mức cho phép.

e.Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý

Sau khi đã xác định được thu nhập, chi phí và lợi nhuận của NHTM, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý của ngân hàng được xác định. Hiệu quả quản lý của NHTM được phản ánh qua một số chỉ tiêu, đó là:

Tỷ lệ Tổng thu nhập/tổng tài sản


Tỷ lệ Tổng thu

nhập/tài sản


Tổng thu nhập

x 100

(2.16)

=

Tổng tài sản

Tỷ lệ tổng thu nhập/tổng tài sản phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của NHTM, cho biết tài sản của NHTM có được phân bổ một cách hợp lý và hiệu quả hay không. Chỉ tiêu càng cao cho thấy rằng NHTM đang có sự đầu tư tài sản một cách hợp lý, mang lại hiệu quả cao từ đó làm động lực gia tăng lợi nhuận của NHTM.

- Tỷ lệ Tổng chi phí/tổng tài sản


Tỷ lệ Tổng chi

phí/tài sản


Tổng chi phí

x 100

(2.17)

=

Tổng tài sản


Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ chi phí đã bỏ ra để sử dụng tài sản trong đầu tư.

Chỉ tiêu càng cao phản ánh tỷ lệ chi phí hoạt động ngân hàng sử dụng càng lớn.

Chi phí của NHTM bao gồm: chi phí hoạt động kinh doanh, chi phí quản lý và chi nộp thuế. Do vậy chỉ tiêu tỷ trọng từng khoản chi phí thường sẽ bao gồm: tỷ trọng chi phí hoạt động/tổng thu nhập; tỷ trọng chi phí quản lý/tổng thu nhập; tỷ trọng chi phí quản lý/tổng tài sản bình quân.

- Tỷ lệ chi phí / thu nhập


Tỷ lệ chi phí /thu nhập


Tổng chi phí

x 100

(2.18)

=

Tổng thu nhập

Chỉ tiêu này thể hiện khả năng bù đắp chi phí tạo ra một đồng thu nhập, từ đó phản ánh hiệu quả kinh doanh của NHTM. Chỉ tiêu thường có tỷ lệ nhỏ hơn 1, nên nếu tỷ lệ lớn hơn 1 có nghĩa để bù đắp cho 1 đồng thu nhập tạo ra NHTM sẽ phải sử dụng nhiều chi phí, hay NHTM đang hoạt động kém hiệu quả.

Bên cạnh việc xác định tỷ lệ thu nhập và chi phí của ngân hàng, việc xác định tỷ trọng cấu thành của từng loại thu nhập và chi phí của ngân hàng cũng cần được quan tâm. Qua đó có thể xác định được ngân hàng đó có thu nhập chủ yếu đến từ những hoạt động nào, sử dụng chủ yếu số vốn đã huy động được vào phần chi phí nào. Đồng thời hai khoản thu nhập chủ yếu của ngân hàng là thu từ lãi và thu ngoài lãi cũng phản ánh được xu hướng hoạt động, cung cấp sản phẩm và dịch vụ, đối tượng mà ngân hàng đó hướng tới trong tương lai. Từ đây, việc xác định tỷ trọng thu nhập từ lãi và thu nhập ngoài lãi của ngân hàng thương mại cũng cần được đánh giá và xem xét.

- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản


Tỷ lệ vốn chủ sở

hữu/tổng tài sản


Tổng vốn chủ sở hữu

x 100

(2.19)

=

Tổng tài sản

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản cho thấy khả năng tự tài trợ của ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu đánh giá mức độ tự chủ về tài chính của ngân hàng cũng như khả năng bù đắp được độ tổn thất (nếu có) bằng vốn chủ sở hữu của mình. Chỉ tiêu càng lớn phản ánh khả năng tự tài trợ của ngân hàng càng lớn, và ngược lại.

Như vậy, các chỉ tiêu thu nhập và chi phí trên sẽ giúp cho NHTM thấy được quy mô và cơ cấu giữa thu nhập và chi phí trong từng thời kỳ của mình. Thông qua


việc so sánh thu nhập và chi phí giữa các kỳ, giữa các NHTM có cùng quy mô hoạt động với nhau cho thấy hướng biến động của các khoản thu nhập, chi phí chung của NHTM; thấy được tính hợp lý, mặt mạnh và yếu của các khoản thu, chi. Qua việc đánh giá các khoản thu, chi, các NHTM sẽ có những biện pháp phù hợp cho hoạt động gia tăng lợi nhuận của mình.

1.2.4.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá an toàn tài chính và khả năng thanh khoản

a. Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh khoản

Khả năng thanh toán của NHTM được đánh giá cao hay thấp chủ yếu dựa trên việc NHTM có đáp ứng được nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng ở mọi thời điểm hay không? Có đáp ứng được các khoản đã duyệt hoặc cam kết cho vay hay không? Có bảo lãnh được các khoản nợ đến hạn? chi phí mà NHTM bỏ ra tác nghiệp khi bán các sản phẩm dịch vụ?... Để đáp ứng được các nhu cầu đó, NHTM thường sử dụng các khoản tiền gửi đang đến, các khoản thu từ việc bán sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế, hoặc hoàn trả tín dụng đã đến hạn. Nói cách khác, NHTM đảm bảo khả năng thanh toán của mình thông qua các khoản: lượng tiền mặt để tại NHTM, tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức tín dụng, tài sản có thể chuyển hóa ngay thành tiền. Để biết tính thanh khoản của NHTM là cao hay thấp sẽ căn cứ vào các đại lượng trên. Như vậy, nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán này sẽ được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu như:

* Tỷ lệ dự trữ thanh khoản


Tỷ lệ dự trữ

thanh khoản

Tài sản có tính thanh khoản cao

x 100

(2.20)

=

Tổng nợ phải trả

Trong đó:

Tài sản có thanh khoản cao của NHTM bao gồm các khoản: tiền mặt và vàng; tiền gửi thanh toán bao gồm cả tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi ký quỹ tại NHNN; các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch của NHNN; tiền trên tài khoản thanh toán tại các ngân hàng đại lý (không bao gồm các khoản cam kết cho mục đích thanh toán cụ thể); tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD; trái phiếu, tín phiếu của Chính phủ các nước, NHTW,…. [19].

Tỷ lệ dự trữ thanh khoản cho thấy khả năng sẵn sàng trả nợ của ngân hàng đó cao hay thấp. Nếu tỷ lệ dự trữ thanh khoản càng cao cho thấy tính thanh khoản của


ngân hàng lớn, có khả năng chi trả cao cho những khoản vay của mình. Ngược lại, khả năng thanh khoản của ngân hàng thấp, dễ dẫn tới rủi ro mất khả năng thanh toán.

* Hệ số đảm bảo tiền gửi:


Hệ số

đảm bảo tiền gửi

Tài sản có tính thanh khoản cao

x 100

(2.21)

=

Tổng số tiền gửi

Hệ số tài sản thanh khoản phản ánh lượng tài sản dùng để thanh toán cho các khoản tiền gửi không kỳ hạn của NHTM trên tổng số tiền gửi huy động được của NHTM trong cùng thời kỳ. Chỉ tiêu cao phản ánh NHTM có độ rủi ro về thanh khoản thấp, và ngược lại.

* Tỷ lệ thanh khoản của tài sản


Tỷ lệ thanh

khoản của tài sản

Tài sản có tính thanh khoản cao

x 100

(2.22)

=

Tổng tài sản

Tỷ lệ thanh khoản của tài sản trong ngân hàng cho thấy trong tổng tài sản có bao nhiêu đồng có tính thanh khoản cao. Tỷ lệ này càng cao cho thấy rằng khả năng thanh toán của ngân hàng trên tổng tài sản càng lớn, và ngược lại.

- Tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản (LAR)


Tỷ lệ cho vay/tổng tài

sản (LAR)

Tổng dư nợ cho vay

x 100

(2.23)

=

Tổng tài sản

LAR phản ánh mối quan hệ giữa tổng dư nợ cho vay và tổng tài sản có của ngân hàng. Cứ 100 đồng tài sản có của ngân hàng sẽ có bao nhiêu đồng được sử dụng để cho vay trực tiếp khách hàng. LAR càng cao cho thấy rằng hoạt động kinh doanh của NHTM càng tốt, và ngược lại LAR thấp cho thấy rằng NHTM đang lãng phí nguồn vốn của mình, nguồn vốn chưa được sử dụng hiệu quả. Thông thường, LAR sẽ dao động trong mức 70% đến 80%.

* Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tiền gửi (LTDR)


Tỷ lệ dư nợ cho vay/tiền gửi


Tổng dư nợ cho vay

x 100

(2.24)

=

Tổng số dư tiền gửi

Chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng nguồn tiền huy động để cho vay của NHTM. Khả năng thanh toán của NHTM sẽ giảm nếu chỉ tiêu tăng, và ngược lại NHTM sẽ có khả năng thanh toán thấp nếu chỉ tiêu giảm.


Tổng dư nợ cho vay của ngân hàng bao gồm: tổng dư nợ cho vay của các tổ chức, cá nhân (trừ dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng); ủy thác cho tổ chức tín dụng cho vay, không bao gồm các khoản cho vay bằng nguồn vốn ủy thác của Chính phủ và vay nước ngoài của TCTD [19].

Tổng số dư tiền gửi (nguồn vốn huy động) bao gồm các khoản: tiền gửi của cá nhân (trừ tiền ký quỹ và tiền gửi chuyên dụng); tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức trong và ngoài nước (trừ tiền gửi kho bạc nhà nước, tiền ký quỹ và tiền gửi vốn chuyên dụng của khách hàng); tiền vay của tổ chức trong nước (trừ kho bạc nhà nước, tiền vay của tổ chức tín dụng khác trong nước); và tiền huy động từ tổ chức, các nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá.

b. Nhóm chỉ tiêu an toàn về tài chính

* Tỷ lệ an toàn vốn tự có (CAR)


CAR


Vốn tự có

x 100

(2.25)

=


Tổng tài sản có rủi ro

Vốn tự có của ngân hàng thương mại là tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 sau khi loại trừ đi các khoản phải trừ theo quy định.

Theo đó, vốn cấp 1 của ngân hàng bao gồm: vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia, và thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật nhưng không tính phần dùng để mua cổ phiếu quỹ (nếu có). Các khoản không tính trong vốn cấp 1 như: lợi thế thương mại; khoản lỗ kinh doanh (bao gồm cả lỗ lũy kế); các khoản góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng khác; các khoản góp vốn, mua cổ phần của công ty con; phần góp vốn, mua cổ phần của một doanh nghiệp, một quỹ đầu tư, một dự án đầu tư vượt mức tổng các khoản quy định; tổng các khoản góp vốn, mua cổ phần sau khi đã trừ đi các khoản vượt mức quy định.

Vốn cấp 2 của ngân hàng được tính bằng tổng các khoản: 50% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định; 40% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định; quỹ dự phòng tài chính; trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn các điều kiện; các công cụ nợ khác thỏa mãn tất cả những điều kiện của quy định. Tuy nhiên, trong quá trình tính vốn cấp 2, cần phải giới hạn một số các khoản, ví dụ như: tổng giá trị của trái phiếu và công cụ nợ

Xem tất cả 225 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí