Các Nhóm Nghiên Cứu Trong Chủ Đề Khởi Sự Kinh Doanh Xã Hội

2


Tháng 8/2018 kỷ niệm 10 năm phát triển DNXH Việt Nam và châu Á. Theo thống kê của Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng (CSIP - Centre for Social Initiatives Promotion) - đơn vị đi đầu trong việc hỗ trợ giúp đỡ khởi sự các DNXH tại Việt Nam, số lượng doanh nghiệp hoạt động như DNXH hiện nay tại Việt Nam khoảng 200, trong đó gần 100 DNXH đã đăng ký chính thức. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng tiềm năng và vai trò của các DNXH trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn rất lớn. Những doanh nghiệp này giúp cải thiện cuộc sống cho hơn 600,000 người, đa số là người dân ở vùng sâu, những lao động khuyết tật, dân tộc thiểu số và tạo việc làm cho hơn 100,000 người ở nhiều lĩnh vực khác nhau (CSIP, 2018). Ngoài ra, tinh thần khởi sự kinh doanh xã hội cũng bắt đầu được lan rộng trong cộng đồng. Các khái niệm về DNXH, khởi sự kinh doanh xã hội cũng bắt đầu nhận được nhiều sự quan tâm của giới trẻ, các doanh nhân thương mại, các nhà tài trợ…nhưng có một thực tế là số lượng DNXH tại Việt Nam vẫn còn ít mặc dù tiềm năng của loại hình này là rất lớn và các nhà hoạch định chính sách vẫn đang tìm cách để làm tăng số lượng DNXH và doanh nhân xã hội.

Về mặt học thuật, tác giả thực hiện tìm kiếm cụm từ social entrepreneurship trong trường chủ đề (tiêu đề /tóm tắt/ từ khóa) trên các cơ sở dữ liệu uy tín. Kết quả tìm kiếm ban đầu có 1,670 ấn phẩm. Trong số này, có 392 ấn phẩm bị loại trùng lắp nội dung hoặc chúng không liên quan đến khởi sự kinh doanh xã hội. Kết quả là, còn lại 1,278 ấn phẩm được chọn để phân tích các chủ đề trong khởi sự kinh doanh xã hội bằng phương pháp đồng trích dẫn. Đồng trích dẫn (co-citation) được định nghĩa là tần suất hai ấn phẩm được trích dẫn cùng nhau bởi các ấn phẩm khác (Small, 1973). Nói cách khác, đồng trích dẫn xảy ra khi hai tài liệu tham khảo, A và B, được trích dẫn bởi nghiên cứu C, cho thấy mối quan hệ đồng trích dẫn giữa hai tài liệu A và B. Hai tài liệu thường xuyên được trích dẫn cùng nhau (được trích dẫn bởi C, D và E), sức mạnh đồng trích dẫn của chúng càng cao và càng có nhiều khả năng chúng có liên quan với nhau (Ferreira, 2018). Tác giả sử dụng phần mềm VOSViewer (van Eck và Waltman, 2009; Waltman, 2017) để phân tích đồng trích dẫn 1,278 ấn phẩm này. Kết quả phân tích đồng trích dẫn cho thấy các ấn phẩm về khởi sự kinh doanh xã hội

3


hình thành năm nhóm chủ đề (Hình 1.1). Các chủ đề này được đặt tên dựa trên nội dung những ấn phẩm có số lượng trích dẫn nhiều trong chủ đề đó (Bảng 1.1).




KHỞI SỰ KINH DOANH XÃ HỘI











Nhóm 1.

Sự phát triển khái niệm khởi sự kinh doanh xã hội và DNXH



Nhóm 2.

Bricolage và các vấn đề liên quan đến quản lý trong kinh doanh xã hội



Nhóm 3.

Sự nhận thức cơ hội, động lực và ý định khởi sự kinh doanh xã hội



Nhóm 4.

Sự đổi mới xã hội trong khởi sự kinh doanh xã hội



Nhóm 5.

Bối cảnh trong khởi sự kinh doanh xã hội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 273 trang tài liệu này.

Tác động của tính cách, giáo dục và kinh nghiệm đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội - 3


(Nguồn: kết quả phân tích đồng trích dẫn của tác giả)

Hình 1.1 Các nhóm nghiên cứu trong chủ đề khởi sự kinh doanh xã hội


Bảng 1.1 Các nhóm nghiên cứu trong khởi sự kinh doanh xã hội từ phân tích đồng trích dẫn


Nhóm

Nghiên cứu tiêu biểu

Nhóm 1. Sự phát triển khái

niệm khởi sự kinh doanh xã hội và DNXH

Mair và Marti (2006), Austin và cộng sự (2006),

Chell (2007), Sharir và Lerner (2006), Thompson và cộng sự (2000), Nicholls (2006), Dees (1998).


Nhóm 2. Bricolage và các vấn đề liên quan đến quản lý trong

kinh doanh xã hội

Datta và Gailey (2012), Granovetter (1985), Doherty và cộng sự (2014), Desa (2012), Desa và Basu (2013), Haugh (2007), Pache và Santos

(2013), Montgomery và cộng sự (2012).

Nhóm 3. Sự nhận thức cơ hội, động lực và ý định khởi sự

kinh doanh xã hội

Shapero và Sokol (1982), Krueger và cộng sự (2000), Mair và Marti (2006), Liđán và Chen

4


Nhóm

Nghiên cứu tiêu biểu


(2009), Nga và Shamuganathan (2010), Hockerts

(2017), Corner và Ho (2010).

Nhóm 4. Sự đổi mới xã hội trong khởi sự kinh doanh xã

hội

Chell và cộng sự (2010), Nicholls (2008), Nicholls (2009), Perrini và cộng sự (2010), Shaw

và de Bruin (2013), Smith và Stevens (2010).

Nhóm 5. Bối cảnh trong khởi sự kinh doanh xã hội

Lepoutre và cộng sự (2013), Zahra và cộng sự (2009), Bacq và cộng sự (2013), Stephan và cộng sự (2015), Estrin và cộng sự (2013), McMullen

(2011).

(nguồn: tác giả tổng hợp)


Nhóm nghiên cứu đầu tiên là sự phát triển khái niệm khởi sự kinh doanh xã hội và DNXH, tập trung vào xây dựng các khái niệm và các cách tiếp cận khác nhau về khởi sự kinh doanh xã hội và DNXH. Nhóm nghiên cứu thứ hai đề cập đến bricolage và các vấn đề liên quan đến quản lý trong khởi sự kinh doanh xã hội. Bricolage trong khởi sự kinh doanh xã hội bao gồm các hoạt động được thúc đẩy bởi việc theo đuổi các nguồn lực khan hiếm để tạo ra các giải pháp sáng tạo và có giá trị, tạo ra các giá trị xã hội (Bacq và cộng sự, 2015). Các khía cạnh khác nhau của bricolage được xem xét trong nhóm nghiên cứu này. Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến quản trị trong DNXH cũng được xem xét như chiến lược, sự hợp tác, huy động nguồn lực, công nghệ, quản lý tài chính, định hướng thị trường... Nhóm nghiên cứu thứ ba bao gồm các nghiên cứu về nhận thức cơ hội và ý định khởi sự kinh doanh xã hội, giải thích quá trình xác định cơ hội và hình thành ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội cũng là hướng nghiên cứu chính trong nhóm nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu thứ tư giải thích cách thức DNXH tác động đến xã hội để tạo ra đổi mới xã hội, thay đổi xã hội và giá trị xã hội. Nhóm nghiên cứu cuối cùng đề cập đến vai trò của các yếu tố thuộc về bối cảnh, thể chế, thảo luận về các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh xã hội.

5


Từ lược khảo về khởi sự kinh doanh xã hội đã thực hiện ở trên, có thể thấy nhóm nghiên cứu về sự nhận thức cơ hội, động lực và ý định khởi sự kinh doanh xã hội (nhóm 3) là chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm từ giới học thuật minh chứng thông qua số lượng lớn các nghiên cứu trong nhóm này. Tuy nhiên, hiện nay có một vấn đề đang được báo động là mức độ kinh doanh xã hội vẫn rất thấp ở các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam mặc dù tiềm năng của hình thức kinh doanh này tại Việt Nam vẫn là rất lớn. Krueger (2003) giải thích rằng kinh doanh chỉ có thể phát triển nếu chất lượng và số lượng doanh nhân tăng lên. Chính vì vậy tăng số lượng DNXH là mong muốn cấp bách để phát triển kinh doanh xã hội tại Việt Nam.

Ý định kinh doanh là một trong những chỉ báo tốt nhất cho hành vi kinh doanh (Ajzen và Fishbein, 1980). Do đó, để có thể có chiến lược phát triển kinh doanh xã hội, thì việc nghiên cứu ý định khởi sự kinh doanh xã hội là vô cùng cần thiết. Hiện nay, tại Việt Nam đang có sự gia tăng về số lượng của các tổ chức hỗ trợ phát triển DNXH với nhiều loại hình hỗ trợ khác nhau như cung cấp miễn phí các khóa học, đào tạo và dịch vụ tư vấn, gọi vốn... Các tổ chức có nhiều kinh nghiệm trong khởi sự kinh doanh xã hội tại Việt Nam như Cộng đồng DNXH Việt Nam (SSEC), Seed Planters, Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng (CSIP), HATCH! và Evergreen Labs. Ngoài ra, một số cơ sở ươm tạo DNXH cũng được chính phủ thành lập như trung tâm đổi mới Sài Gòn (SiHUB), Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp cho thanh niên (sYs), BKHUP và Chương trình Quốc gia khởi nghiệp cũng góp phần phát triển khởi sự kinh doanh xã hội tại Việt Nam. Những đặc điểm này đã khiến Việt Nam trở thành một khu vực phù hợp để thực hiện nghiên cứu về ý định khởi sự kinh doanh xã hội.

Về mặt học thuật, tác giả cũng thực hiện tìm kiếm những ấn phẩm bằng tiếng Anh trên các cơ sở dữ liệu uy tín với cụm từ social, entrep* and intent* để lược khảo các nghiên cứu về ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Tác giả đọc kỹ các tiêu đề, tóm tắt và từ để loại bỏ các bài báo trùng lặp và nghiên cứu không liên quan đến chủ đề nghiên cứu.

6


Kết quả cuối cùng, có tổng cộng 36 nghiên cứu nghiên cứu về ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Kỹ thuật phân tích nội dung được sử dụng để phân tích 36 bài báo, vì kỹ thuật này có khả năng xác định các lĩnh vực chính của chủ đề nghiên cứu (Elo và Kyngäs, 2008; Krippendorff, 2004). Trong phân tích nội dung theo chủ đề, các bài viết được tác giả phân loại và mã hóa các đặc điểm của các bài viết này. Sau khi phân tích 36 bài, các đặc điểm của những bài viết được liên kết với nhau để hình thành các nhóm danh mục và các nhóm chủ đề trong từng danh mục.

Kết quả phân tích lược khảo về ý định khởi sự kinh doanh xã hội dẫn đến hình thành bốn danh mục nghiên cứu chính: Mô hình nghiên cứu, các vấn đề liên quan đến phương pháp luận và cách tiếp cận (gồm 12 nghiên cứu); Các yếu tố thuộc về cá nhân (gồm 19 nghiên cứu); Bối cảnh và thể chế (gồm 4 nghiên cứu); Quá trình từ ý định đến quyết định (gồm 1 nghiên cứu) (bảng 1.2).

Bảng 1.2 Danh mục và các chủ đề trong ý định khởi sự kinh doanh xã hội


Danh mục

Chủ đề trong từng danh mục

Danh mục 1. Mô hình nghiên cứu, các vấn đề liên quan đến phương pháp luận và

cách tiếp cận (12)

- Kiểm tra/mở rộng mô hình cổ điển (7)

- Cách tiếp cận (3)

- Phương pháp (2)

Danh mục 2. Các yếu tố thuộc về cá nhân (19)

- Tính cách (9)

- Lý lịch cá nhân (8)

- Các vấn đề liên quan đến giới tính (2)


Danh mục 3. Bối cảnh và thể chế (4)

- Các nghiên cứu về đa văn hóa (2)

- Các yếu tố thuộc về thể chế (1)

- Cấp độ tổ chức (1)

Danh mục 4. Quá trình từ ý định đến quyết

định (1)


*số lượng nghiên cứu được thể hiện trong ngoặc đơn

(nguồn: tác giả tổng hợp)

7


Danh mục 1. Mô hình nghiên cứu, các vấn đề liên quan đến phương pháp luận và cách tiếp cận (12 nghiên cứu)

Các nghiên cứu trong danh mục này kiểm tra các mô hình ý định khởi sự kinh doanh xã hội, giải quyết các vấn đề lý thuyết hoặc sử dụng các cách tiếp cận và phương pháp mới. Tác giả đã tìm thấy ba chủ đề trong danh mục này, bao gồm: Kiểm tra/mở rộng mô hình cổ điển, cách tiếp cận mới và phương pháp mới.

Về chủ đề đầu tiên - kiểm tra/mở rộng mô hình cổ điển - bảy nghiên cứu được phân loại vào chủ đề này. Cụ thể, dựa trên mô hình doanh nhân tiềm năng của Kruger và Brazeal (1994), Noorseha (2013) nghiên cứu ý định khởi sự kinh doanh xã hội với hai biến bổ sung là sự đồng cảm và sự tiếp xúc với hoạt động kinh doanh xã hội. Hockerts (2017) và Forster và Grichnik (2013) kiểm tra mô hình ý định khởi sự kinh doanh xã hội của Mair và Noboa (2006). Trong khi Hockerts (2017) bổ sung biến kinh nghiệm với các vấn đề xã hội, Forster và Grichnik (2013) đề xuất một mô hình mới kết hợp các biến như sự đồng cảm, nhận thức của xã hội, khả năng của bản thân và nhận thức khả năng thành công khi khởi sự kinh doanh xã hội. Hai nghiên cứu tiếp theo kế thừa mô hình của Hockerts (2017) và kiểm tra tại Hồng Kong (Ip và cộng sự, 2017) và Philippines (Aure, 2018). Tiwari và cộng sự (2017a) khám phá vai trò của phong cách nhận thức và niềm tin vào năng lực tác động như thế nào đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội thông qua ba yếu tố thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Gần đây nhất, để kiểm tra khả năng áp dụng của thuyết hành vi có kế hoạch (theory of planned behavior), Zaremohzzabieh và cộng sự (2019) thực hiện một phân tích tổng hợp (meta-analysis) để đề xuất hai mô hình mở rộng thay thế mô hình truyền thống.

Trong chủ đề nghiên cứu thứ hai cách tiếp cận mới với ba bài nghiên cứu. Tran và Von Korflesch (2016) đóng góp vào sự hiểu biết về ý định khởi sự kinh doanh xã hội bằng cách giới thiệu lý thuyết nhận thức xã hội nghề nghiệp (SCCT - Social cognitive career theory). Trong khi Beugré (2014) tiếp cận dựa trên lý thuyết về sự gắn kết đạo đức để giải thích động lực thúc đẩy việc thành lập DNXH, Rivera và cộng sự (2018) thực hiện nghiên cứu bằng cách sử dụng cách tiếp cận lãnh đạo phục tùng

8


(servant leadership approach) và lý thuyết về phong cách sống (lifestyles theory) để đo lường ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Tóm lại, những cách tiếp cận này cho thấy sự tiềm năng trong đo lường ý định khởi sự kinh doanh xã hội, mặc dù vậy, những cách tiếp cận này cần phải được kiểm tra, so sánh và đối chiếu để hoàn thiện hơn về khả năng áp dụng trong tương lai.

Chủ đề nghiên cứu cuối cùng trong danh mục 1 là phương pháp nghiên cứu. Baierl và cộng sự (2014) sử dụng một thiết kế thử nghiệm dựa trên bảng câu hỏi để cho thấy ảnh hưởng tích cực của đánh giá xã hội đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Để phác họa về một doanh nhân xã hội, Bacq và cộng sự (2016) đã thực hiện bốn bộ hồi quy nhị phân để tìm sự khác nhau giữa các doanh nhân xã hội và doanh nhân thương mại dựa bộ dữ liệu khảo sát của GEM (Global Entrepreneurship Monitor) năm 2009.

Danh mục 2. Các yếu tố thuộc về cá nhân (19 nghiên cứu)

Đa số ấn phẩm về ý định khởi sự kinh doanh xã hội thuộc danh mục này. Trong danh mục này, chín bài báo tập trung vào vai trò của tính cách tạo thành nhóm chủ đề về tính cách. Chủ đề thứ hai với tám bài báo liên quan đến nhiều yếu tố nền tảng khác nhau như giáo dục, địa vị và động lực. Danh mục cuối cùng bao gồm hai nghiên cứu về vai trò của giới tính.

Trong nhóm yếu tố tính cách, có chín nghiên cứu thảo luận về những tính cách đặc biệt của doanh nhân xã hội tiềm năng. Để khám phá tính cách chung của một doanh nhân xã hội tiềm năng, Nga và Shamuganathan (2010) và Preethi và Priyadarshini (2018) sử dụng mô hình Năm tính cách lớn (Big Five model) bao gồm sự tận tâm (conscientiousness), sẵn sàng trải nghiệm (openness), sự ổn định trong tâm lý (emotional stability or neuroticism in reverse), hướng ngoại (extraversion) và sự dễ chịu (agreeableness) để đo lường năm khía cạnh của ý định khởi sự kinh doanh xã hội bao gồm tầm nhìn xã hội, lợi nhuận tài chính, sự đổi mới, tính bền vững và mạng xã hội, trong khi đó Ip và cộng sự (2018a) chỉ kiểm tra tác động của năm tính cách này đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Sau đó, những tính cách cụ thể đã được nghiên cứu, chẳng hạn như xu hướng chấp nhận rủi ro, tính sáng tạo và tính chủ động

9


(Chipeta và Surujlal, 2017; Politis và cộng sự, 2016; Kedmenec và cộng sự, 2015; Prieto, 2011), trí tuệ cảm xúc và năng lực bản thân (Tiwari và cộng sự, 2017c), và sự khó khăn trong cuộc sống và trách nhiệm đạo đức (Kedmenec và cộng sự, 2015; Bacq và Alt, 2018).

Liên quan đến các yếu tố thuộc về lý lịch cá nhân, tám nghiên cứu trong chủ đề này tập trung vào vai trò các yếu tố nền tảng khác nhau ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Có hai nghiên cứu xem xét vai trò của giáo dục đối với ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Shahverdi và cộng sự (2018) xác định các rào cản trong việc hình thành ý định khởi sự kinh doanh xã hội bằng cách kiểm duyệt vai trò của giáo dục trong các trường đại học tại Malaysia. Hockerts (2018) tập trung vào mối quan hệ giữa quá trình học tập, kinh nghiệm và xu hướng thành lập DNXH. Ngoài ra, một số yếu tố nền tảng cũng được nghiên cứu như hoàn cảnh gia đình và môi trường đại học (Radin và cộng sự, 2017), kinh nghiệm làm việc (Lacap và cộng sự, 2018), khả năng tiếp cận tài chính (Luc, 2018), vốn con người và vốn xã hội (Jemari và cộng sự, 2017), nhu cầu động lực (Barton và cộng sự, 2018) và định hướng đổi mới xã hội (Cavazos-Arroyo và cộng sự, 2017).

Có hai bài báo trong nhóm chủ đề về giới tính tìm hiểu vai trò của giới tính. Notais và Tixier (2017) tìm hiểu điều gì thúc đẩy mong muốn của những người phụ nữ khiến họ trở thành doanh nhân xã hội. Lortie và cộng sự (2017) từ các lược đồ về giới tính (gender self-schemas) và lý thuyết bản sắc xã hội (social identity theory) để giải thích tại sao phụ nữ có xu hướng tự tạo ra các mục tiêu xã hội và giải quyết nó thông qua việc khởi sự kinh doanh xã hội.

Danh mục 3. Bối cảnh và thể chế (4 nghiên cứu)

Danh mục này chỉ có bốn bài báo dành sự quan tâm cho vai trò của bối cảnh đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Ba chủ đề trong danh mục này bao gồm: nghiên cứu về đa văn hóa, các nghiên cứu về thể chế và nghiên cứu ở cấp độ tổ chức.

Có hai bài báo liên quan đến nghiên cứu đa văn hóa, tập trung vào việc so sánh ý định khởi sự kinh doanh xã hội giữa các quốc gia. Các quốc gia được so sánh bao gồm Hoa Kỳ và Trung Quốc (Yang và cộng sự, 2015b), Đài Loan và Hồng Kông (Ip

Xem tất cả 273 trang.

Ngày đăng: 24/01/2024