Thứ hai, cơ hội trong hoạt động huy động vốn của các NHTM tăng trưởng mạnh góp phần mở rộng hoạt động đầu tư và cho vay. Hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16- 18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn qua các năm ở mức 22 - 47%.
Từ tăng trưởng trong huy động vốn đã góp phần mở rộng hoạt động đầu tư và cho vay. Mức huy động vốn cao, góp phần vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng ngày càng hiệu quả. Ngoài ra, cơ cấu dư nợ toàn ngành ngân hàng đã gắn với chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và NHNN, cơ cấu cho vay phi sản xuất có dấu hiệu giảm kể từ sau năm 2010, cụ thể năm 2010 là 20,05%, và cuối tháng 9/2011 là 15,36%, thấp hơn mức 16% mà NHNN quy định.
Thứ ba, các ngân hàng ngày càng đa dạng sản phẩm, dịch vụ của mình. Bên cạnh những sản phẩm truyền thống như tiền gửi và cho vay, đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới có nhiều tiện ích cho khách hàng như: tăng tiện ích của tài khoản cá nhân, phát triển dịch vụ thẻ, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại như internet banking, phone banking…Hoạt động huy động vốn ngày càng đa dạng hơn về hình thức để người gửi tiền có nhiều lựa chọn có lợi cho mình nhất. Ngoài các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cố định truyền thống, các ngân hàng còn đưa ra các sản phẩm tiền gửi được hưởng lãi suất biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo giá trị theo vàng, được bù chênh lệch tỷ giá… Đặc biệt, dịch vụ thanh toán thẻ đã có sự phát triển bùng nổ. Nhiều sản phẩm thẻ đa tiện ích đã được giới thiệu tới khách hàng và thanh toán bằng thẻ ATM đã trở nên khá phổ biến tại các tỉnh, thành phố lớn.
5.2.2. Thách thức
Tuy nhiên, bên cạnh đó, ngân hàng cũng vẫn tồn tại những thách thức gây ra sự phi hiệu quả trong hoạt động của mình. Đó là thách thức trong việc hạn chế rủi ro.
Thứ nhất, rủi ro nợ xấu ngày càng gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM tăng mạnh ở các năm 2008, 2009. Trong những năm gần đây, tình trạng nợ xấu của các ngân hàng đang có xu hướng gia tăng, đây được coi là những thách thức lớn khi tiến hành tái cơ cấu hoặc mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
Theo đánh giá của Fitch Ratings (2017), nợ xấu của Việt Nam khoảng 12-13% và theo một số nghiên cứu trong nước như bộ phận nghiên cứu kinh tế thuộc Maritime Bank (2018) cho thấy, nếu hạch toán đúng và áp dụng chuẩn quốc tế về phân loại nợ, nợ xấu ngân hàng ít nhất là 10% (trên 10 tỷ USD), chiếm gần 10% GDP của Việt Nam hiện nay. Nếu chỉ dựa vào tỷ lệ nợ xấu 10% và tỷ trọng tài sản cho vay/tổng tài sản của toàn
ngành ngân hàng là 60%, thì 10% nợ xấu đang tác động nghiêm trọng đến khoảng một nửa tổng vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hơn nữa, nếu khoảng 50% nợ xấu có khả năng làm mất vốn các ngân hàng thì tình hình nợ xấu của toàn hệ thống có khả năng tiêu hủy khoảng 1/3 vốn chủ sở hữu hiện nay của toàn ngành.
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Từ Đo Lường Hiệu Quả Hoạt Động Và Đánh Giá Tác Động Của Các Nhân Tố Vĩ Mô Đến Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại
- Thực Trạng Hiệu Quả Hoạt Động Của Các Nhtm Việt Nam
- Hiệu Quả Scale Của Các Ngân Hàng Từ Năm 2008-2019
- Tác động của một số nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 15
- Nguyễn Hoàng Phong (2019),tác Động Của Cạnh Tranh Đến Hiệu Quả Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam, Luận Án Tiến Sỹ Kinh Tế, Đại Học
- Tác động của một số nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 17
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Thứ hai, thách thức trong đảm bảo tỷ lệ hệ số an toàn vốn (CAR). Quy định về tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam dần dần đã theo các chuẩn mực quốc tế, tỷ lệ này theo quy định là từ 8% (theo QĐ số 457/2005/QĐ-NHNN - tiếp cận theo Hiệp ước về vốn, viết tắt là Basel I) đến 9% (theo Thông tư số 13/2005/QĐ-NHNN - tiếp cận theo Basel II). Trong khi đó, thực tế số liệu hoạt động của các ngân hàng cho thấy không có nhiều ngân hàng của Việt Nam đạt được tỷ lệ này. Các ngân hàng lớn của Nhà nước đạt được tỷ lệ này có xu hướng nhiều hơn so với khối các NHTM cổ phần. Điều này cho thấy những khó khăn trong việc xác định và đảm bảo hệ số CAR khi thực hiện tái cơ cấu ngân hàng, khi mà yêu cầu của đề án tái cơ cấu là phải giảm thiểu rủi ro cho hệ thống. Nếu theo tiêu chuẩn Basel III thì hệ số CAR được quy định nâng lên ở ngưỡng 13% để đảm bảo khi nền kinh tế có biến động, sẽ có nhiều NHTM lớn ở Việt Nam đạt được. Tuy nhiên, khi áp dụng Basel III lại phải có những yêu cầu cao hơn ở những chỉ tiêu khác mà hệ thống ngân hàng nước ta chưa thể vươn tới, khi mà lộ trình tái cơ cấu mới chỉ cố gắng áp dụng xong hệ thống chỉ tiêu của Basel II đến cuối năm 2015. Do vậy, khi tái cơ cấu hoặc mở rộng hoạt động của ngân hàng thì hệ số CAR phải được xác định chính xác với từng ngân hàng phải tái cơ cấu, được sáp nhập hợp nhất hay được hỗ trợ tài chính để đảm bảo hệ số CAR trước mắt theo hướng tiến về tỷ lệ 9%. Đây có thể là cơ hội cho các ngân hàng tính toán và đàm phán với nhau trong tiến trình sáp nhập hay cổ phần hóa.
Thứ ba, thách thức khi tính thanh khoản đang giảm dần. Tính thanh khoản của các NHTM ngày càng giảm sút thể hiện tỷ lệ tổng tín dụng/tổng vốn huy động (như năm 2010) tăng liên tục nhưng nguồn vốn huy động vào lại có biểu hiện giảm. Ngoài ra, tỷ lệ này ở hầu hết các quốc gia châu Á đều thấp hơn 80% trong khi Việt Nam có thời điểm lên đến hơn 130%, vì vậy NHNN đã ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực vào tháng 10/2010 quy định tỷ lệ này ở mức tối đa 80% cho các ngân hàng và 85% cho các TCTD khác nhưng cho đến nay tỷ lệ này vẫn chưa giảm và vấn đề vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Đồng thời, tỷ lệ tín dụng cho vay/vốn huy động lại có xu hướng tăng lên, năm 2008 là 0,95%, năm 2009 là 1,01%, năm 2010 là 1,01% và năm 2011 là 1,03% trong khi tín dụng tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng vốn huy động. Đây là điều không tốt để tăng tính thanh khoản trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Thứ tư, thách thức trong việc đảm bảo quyền lợi và giá trị tài sản của người gửi tiền. Người gửi tiền thường không yên tâm khi tiền gửi ở các ngân hàng có xu hướng bị sáp nhập, hợp nhất hay chia tách (trong khi mà Luật bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam vẫn chưa được Quốc hội thông qua). Thách thức đảm bảo quyền lợi và giá trị tài sản của người gửi tiền được coi là vấn đề lớn trong tiến trình tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam.
Thứ năm, thách thức nâng cao quản trị, nâng cao trình độ công nghệ. Trình độ quản trị của các NHTM Việt Nam còn hạn chế. Yếu tố này liên quan đến vấn đề nhân sự, trình độ nhân sự. Việt Nam còn thiếu rất nhiều chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực ngân hàng. Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa trong vấn đề quản lý ngân hàng mà còn là nguy cơ tạo ra cạnh tranh nhân lực giữa các ngân hàng, đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động lên cao. Các ngân hàng trong nước sẽ gặp khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám.
Công nghệ ngân hàng của các NHTM trong nước còn lạc hậu. Mặc dù năng lực công nghệ của các NHTM Việt Nam đã được từng bước nâng cấp với sự thành công của Dự án Hiện đại hóa Ngân hàng và Hệ thống Thanh toán do Ngân hàng thế giới tài trợ. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa các ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài thì các ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ công nghệ ngân hàng với các hệ thống máy móc thiết bị hiện đại cũng như các ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiệp vụ ngân hàng. Sự liên kết giữa các NHTM còn lỏng lẻo; công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt lạc hậu do đó không đáp ứng được yêu cầu về thời gian để mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
Thứ sáu, thách thức trong giám sát hệ thống NHTM Việt Nam. Các nguyên tắc giám sát Basel hiện nay vẫn được xem là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát ngân hàng của các quốc gia. Theo đánh giá của tổ chức Hợp tác phát triển Quốc tế Canada (CIDA) trong khuôn khổ dự án hợp tác về cải cách ngân hàng Việt Nam, hoạt động giám sát của NHNN mới chỉ đáp ứng được 6/25 nguyên tắc giám sát, tương ứng tỷ lệ 24% của Basel, và đang triển khai xúc tiến 13/25 nguyên tắc (52%), còn lại 6/25 nguyên tắc (24%) chưa được đáp ứng.
Bên cạnh đó, hệ thống cơ quan quản lý giám sát của Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều điểm hạn chế, tác động mạnh tới an toàn của hệ thống tài chính nói chung, hệ thống NHTM nói riêng. Hoạt động giám sát chưa chú trọng đến việc cảnh báo sớm và hiện tại mới chỉ tập trung nhiều vào giám sát tuân thủ theo kiểu các định chế riêng lẻ là chủ yếu. Do vậy, tái cơ cấu các NHTM theo hướng lành mạnh hóa về tài chính, cơ cấu lại hoạt động, cơ cấu lại hệ thống quản trị và cơ cấu lại pháp nhân & sở hữu phải được
tiến hành cùng với việc vươn tới hiệu quả giám sát ít nhất là theo tiêu chuẩn Basel II càng nhanh càng tốt.
Như vậy, hiện nay hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang có nhiều thuận lợi để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, kèm theo là những khó khăn đến từ tình hình kinh tế chung, chính sách, công nghệ…
5.3. Các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam
5.3.1. Đối với các ngân hàng thương mại
Thứ nhất, về tạo lập và sử dụng vốn hiệu quả:
- Phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi để tăng vốn chủ sở hữu
Các NHTM cổ phần có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chào bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư trong nước hoặc thông qua việc tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Ngoài ra, các ngân hàng cũng có thể chọn giải pháp phát hành trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường. Để phát hành thêm trái phiếu có thể chuyển đổi hoặc cổ phiếu cho rộng rãi công chúng đầu tư thì các ngân hàng phải đạt được các tiêu chuẩn phát hành nghiêm ngặt, tức là các chỉ số hoạt động phải tốt. Khi các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài trở thành cổ đông chiến lược, các ngân hàng sẽ tranh thủ được tiềm lực về vốn và năng lực quản trị của những nhà đầu tư này. Để thực hiện giải pháp này một cách hiệu quả, các NHTM Việt Nam cần cung cấp báo cáo tài chính đầy đủ, minh bạch, công khai thông tin, có như vậy mới có khả năng tham gia huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Vốn chủ sở hữu có ý nghĩa quan trọng đối với vị thế của ngân hàng. Tăng năng lực vốn chủ sở hữu giúp ngân hàng đáp ứng được tiêu chuẩn nguồn vốn theo Basel; thuận lợi đầu tư vào các sản phẩm, dịch vụ chất lượng; có điều kiện thu hút nhân lực chất lượng cao; phát triển công nghệ hiện đại; ... Chính vì vậy, các ngân hàng Việt Nam cần phải tăng vốn trên cơ sở có thiết lập quy trình quản trị hiệu quả vốn chủ sở hữu.
- Phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi trung và dài hạn
Các ngân hàng có thể tăng vốn bằng cách truyền thống thông qua việc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi trung và dài hạn trên thị trường. Việc đẩy mạnh tăng vốn theo hình thức này là bước chuẩn bị cần thiết của các NHTM cổ phần trước động thái ngày càng siết chặt việc sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của NHNN.
- Đổi mới và đa dạng các hình thức huy động vốn tiền gửi
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, các NHTM lớn đã nhanh chóng đưa ra hình thức huy động mới – tiết kiệm trực tuyến nhằm mang lại những trải nghiệm tốt
nhất cho khách hàng. Theo đó, khách hàng chỉ cần cài đặt và sử dụng dịch vụ internet banking hoặc mobile banking là đã có thể gửi tiết kiệm trực tuyến. Với hình thức tiết kiệm này, khách hàng sẽ dễ dàng chuyển tiền từ tài khoản thanh toán sang tài khoản tiết kiệm để hưởng mức lãi suất ưu đãi. Hiện nay, các ngân hàng đưa ra các mức lãi suất tiết kiệm trực tuyến cao hơn lãi suất tiết kiệm truyền thống nhằm khuyến khích khách hàng sử dụng kênh giao dịch tiện lợi này. Khách hàng có thể thực hiện tất cả các thao tác, từ mở sổ tiết kiệm, lựa chọn kỳ hạn và lãi suất, lựa chọn hình thức tiết kiệm và tất toán, thậm chí có thể tất toán tiền gửi trước hạn bất cứ lúc nào mà không cần phải ra ngân hàng. Nhờ đó tiết kiệm rất nhiều thời gian, đảm bảo an toàn và không phát sinh chi phí cho khách hàng. Về mặt ngân hàng, việc giảm thiểu những chi phí như: chi phí nhân viên, chi phí kiểm đếm, giấy tờ, ... cũng mang đến lợi ích cho ngân hàng. Tuy nhiên, để phát triển hình thức gửi tiền này, ngân hàng cũng cần đầu tư mạnh vào công nghệ để phát triển hình thức ngân hàng số.
- Mở rộng nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn
Đây là nguồn vốn có lãi suất huy động khá thấp. Dẫn đầu trong việc chú trọng phát triển nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn là các NHTM cổ phần có vốn nhà nước chi phối do nhận được lợi thế rất lớn nhờ huy động được tiền gửi không kỳ hạn dồi dào từ các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước. Hiện nay, cùng với sự thay đổi trong tư duy khi các thành phần kinh tế được coi trọng ngang nhau, các ngân hàng tư nhân cũng tích cực cạnh tranh thị phần nguồn vốn này thông qua yếu tố lãi suất huy động hấp dẫn hơn. Việc tăng trưởng tỷ lệ vốn không kỳ hạn trên tổng huy động (CASA) giúp các ngân hàng giảm được chi phí huy động vốn. Tuy nhiên, muốn chiếm được thị phần, các ngân hàng cần có những chiến lược thích hợp. Ngoài lãi suất, sự đảm bảo an toàn và những tiện ích giao dịch, thanh toán là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng của khách hàng. Một số giải pháp tăng tỷ lệ CASA mà các NHTM Việt Nam có thể thực hiện như: (1) Tập trung cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng để thu hút khách hàng;
(2) Tạo quan hệ tốt với khách hàng doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có dòng tiền ra vào lớn; (3) Khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ ghi nợ, miễn phí giao dịch hoặc hoàn tiền cho khách hàng theo dung lượng thanh toán; (4) Mở rộng kênh bán lẻ.
- Thiết lập mức lãi suất cạnh tranh
Đặt ra mức lãi suất hợp lý phải đi kèm với việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động và mức độ của môi trường cạnh tranh. Đối với vốn huy động từ nền kinh tế, ấn định mức lãi suất rất quan trọng. Các ngân hàng phải tính toán, cân nhắc để đưa ra mức lãi suất vừa đảm bảo hấp dẫn khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới nhưng vẫn phải có hiệu quả về mặt chi phí. Hiện nay các NHTM cổ phần Việt Nam, đặc biệt là các ngân
hàng nhỏ và vừa luôn có những chính sách lãi suất rất hấp dẫn để thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ lãi suất có thể gây ra rủi ro, nhất là khi ngân hàng huy động được nhưng lại sử dụng vốn không hiệu quả hoặc do thay đổi chính sách.
Nhìn chung, nếu muốn hoạt động hiệu quả, các ngân hàng phải quản lý được các nguồn vốn, lựa chọn tỷ trọng phù hợp cho từng nguồn vốn. Giải pháp an toàn là duy trì mức tăng trưởng vốn hợp lý, phù hợp pháp luật, tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp, đồng thời chú trọng đầu tư vào tăng chất lượng sản phẩm, dịch vụ để thu hút khách hàng đến giao dịch hòng gia tăng lợi nhuận.
Thứ hai về nâng cao năng lực quản trị rủi ro:
- Hoàn thiện quy trình xét duyệt tín dụng
Trong hoạt động của ngân hàng tồn tại sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao, rủi ro càng lớn. Vì vậy, muốn hoạt động có hiệu quả có hiệu quả thì nâng cao năng lực quản trị rủi ro là việc làm thiết yếu, đặc biệt là quản trị rủi ro tín dụng. Để làm điều đó, trước tiên nên hoàn thiện quy trình xét duyệt tín dụng để không làm gia tăng thêm các khoản nợ xấu. Quy trình này cần được thực hiện một cách chặt chẽ với nhiều khâu kiểm soát chéo, phi lợi ích nhằm tránh tổn thất có thể xảy ra. Việc thiết lập một quy trình cảnh báo sớm rủi ro sẽ hỗ trợ cán bộ tín dụng rất nhiều trong công tác tiếp cận khách hàng, thẩm định và nhận diện rủi ro tín dụng. Trích lập dự phòng rủi ro và tài sản đảm bảo là hai nguồn chính để ngân hàng xử lý nợ xấu.
- Kiểm soát thông tin khách hàng vay
Trong hoạt động tín dụng, thông tin khách hàng vay là yếu tố quan trọng giúp nhân viên tín dụng và các cấp có thẩm quyền ra quyết định tín dụng. Thông tin về khách hàng vay có thể được thu thập từ nhiều nguồn như: Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC); thông tin từ ngân hàng (lịch sử tín dụng, phân tích và khảo sát của cán bộ tín dụng); thông tin từ chính khách hàng cung cấp. Bản than ngân hàng cũng cần xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng khách hàng nên được chuẩn hóa và đồng bộ thông tin trên toàn hệ thống các chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng. Hệ thống thông tin này sẽ là cơ sở vững chắc cho việc đánh giá về khách hàng vay vốn, tạo sự thống nhất về mặt thông tin giữa cán bộ tín dụng và các chuyên gia phê duyệt, các cấp có thẩm quyền. Ngoài ra, các ngân hàng cần gia tăng hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Hoàn thiện bộ máy quản trị rủi ro theo chuẩn Basel II
Để đáp ứng các quy định theo chuẩn quốc tế Basel II, các ngân hàng cần đổi mới và hoàn thiện toàn bộ các khâu của quy trình tín dụng như: nhận diện, đo lường rủi ro, thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên ở các cấp độ. Việc làm này sẽ giúp các ngân hàng tiến tới xây dựng quy trình cấp tín dụng hiệu quả, lành mạnh.
Thứ ba, về lao động:
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Con người là nguồn lực quan trọng và có tính quyết định đến sự thành – bại của một tổ chức. Một trong những nguyên nhân chủ quan khiến hiệu quả kiểm soát chi phí chưa cao, lợi nhuận sau thuế thấp là do chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, xét cả về khía cạnh chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng mềm và đạo đức nghề nghiệp. Trong khi đó, nguồn nhân lực chính là một trong những nguồn lực quan trọng trong hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào. Đứng trước những cơ hội và thách thức của thời kỳ hội nhập, tiêu chuẩn nhân lực của ngân hàng lại càng được nâng cao, ngoài yếu tố đạo đức trung thực thì nhân lực ngân hàng vừa phải đáp ứng được các hoạt động kinh doanh truyền thống, vừa bắt kịp sự biến động trong xu thế số hóa. Chính vì vậy, cần có giải pháp phát triển và duy trì nhân lực chất lượng để tạo nên sức mạnh nội tại và góp phần thực thi những chiến lược phát triển bền vững của ngân hàng.
- Xây dựng chiến lược tuyển dụng hợp lý và có bộ tiêu chuẩn theo vị trí chức danh
Chiến lược tuyển dụng các vị trí phải phù hợp với định hướng phát triển của ngân hàng. Trên thực tế, bộ tiêu chuẩn sẽ giúp ngân hàng nắm được cơ cấu và trình độ của đội ngũ nhân viên, từ đó có thể thực hiện đào tạo ở những cấp độ khác nhau. Việc thiết lập các tiêu chuẩn đối với từng vị trí cụ thể là đặc trưng của các ngân hàng nước ngoài. Khi các ngân hàng Việt Nam thực hiện tốt công việc này sẽ giúp chất lượng các vị trí nhân lực tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế, gián tiếp đòi hỏi quá trình học hỏi và nâng cao trình độ của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
- Chính sách nhân sự phù hợp đối với người lao động
Người lao động trong mỗi tổ chức rất cần những điều kiện làm việc thuận lợi. Đó là: (i) môi trường làm việc thân thiện, tổ chức đoàn kết và gắn bó nhằm thúc đẩy sự sáng tạo, khuyến khích ý tưởng và sáng kiến có hiệu quả trong kinh doanh; (ii) xây dựng văn hóa doanh nghiệp với những điều lệ, nội quy giúp các cá nhân, khối, trung tâm nghiêm túc chấp hành kỷ luật lao động; khen thưởng và có các chế tài xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Điều này sẽ giúp cán bộ nhân viên ngân hàng có tác phong làm việc chuyên nghiệp, tăng năng suất lao động và hạn chế những hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Môi trường hài hòa sẽ thúc đẩy hiệu quả và năng suất làm việc của từng cá nhân, của cả tổ chức.
Thứ tư, về kiểm soát chi phí:
- Tính toán cân đối giữa chi phí lãi và thu nhập từ lãi
Việc không cân đối được giữa chi phí trả lãi và thu nhập từ lãi là một trong những nguyên nhân khiến một số ngân hàng gặp khó khăn trong hoạt động. Để cân đối giữa chi phí và thu nhập từ lãi, các ngân hàng nên chuẩn bị các mức lãi suất huy động và cho vay hợp lý trên cơ sở lãi suất chỉ đạo, tính trong hoàn cảnh chung của nền kinh tế. Nếu khi thiếu vốn, một số ngân hàng chạy đua trong việc huy động tiền từ nền kinh tế với các mức lãi suất huy động cao hơn sẽ tạo nên cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng và đẩy lãi suất cho vay tăng nhanh. Như vậy, để gia tăng hiệu quả kiểm soát chi phí, đặc biệt đối với những ngân hàng nhỏ, cần có phương thức cạnh tranh thích hợp như thay vì chạy đua lãi suất huy động, ngân hàng có thể cải tiến dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ, tạo gói dịch vụ tiện ích để thu hút khách hàng.
- Cắt giảm chi phí hoạt động
Chi phí hoạt động của một doanh nghiệp đặc biệt như ngân hàng rất nhiều, vừa giống nhưng cũng vừa khác các doanh nghiệp thông thường. Chi phí hoạt động thường bao gồm chi phí quản lý, chi phí hành chính, lương nhân viên, tiền thuê trụ sở chi nhánh, quảng cáo, vận hành... Nhìn chung, các ngân hàng Việt Nam cần kiểm soát chặt chẽ các chi phí. Bằng việc kiểm soát chặt chẽ chi phí ngân hàng tiết kiệm cho chính mình, tăng thêm lợi nhuận cho cổ đông, vừa nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân viên ngân hàng về việc giảm thiểu rác thải, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Chi phí tiền lương cũng cần được các ngân hàng phải kiểm soát hợp lý. Ngân hàng cần hiện đại hóa quy trình hoạt động nhằm tăng năng suất và giảm thiểu lao đông thủ công. Đồng thời, các nhà quản trị ngân hàng có trách nhiệm phân bổ nhân viên theo đúng nhu cầu từng bộ phận, nhằm mục tiêu chi phí bỏ ra ít nhưng kết quả vẫn đảm bảo. Bên cạnh đó, người ít nhưng trả lương cao cũng là yếu tố thúc đẩy năng suất, sáng kiến.
- Cắt giảm chi phí dự phòng
Tỷ lệ trích lập dự phòng các khoản nợ đã được quy định bởi NHNN. Chính vì vậy, nếu muốn cắt giảm chi phí dự phòng, các ngân hàng cần giảm tối đa nợ trong các nhóm từ nhóm 2 đến nhóm 5. Để làm được điều này, cần chú trọng hoàn thiện quy trình trong các bước chấm điểm tín dụng, thẩm định hồ sơ xin vay, quản trị quá trình cho vay và kiểm soát hiệu quả sau vay.