nói riêng giảm bớt gánh nặng về thuế, tăng doanh thu, giảm chi phí và thu được lợi nhuận cao hơn.
Theo Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm là số tiền phải thu phát sinh trong kỳ bao gồm doanh thu sau khi đã trừ các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ hoạt động khác. Cụ thể:
Doanh thu sau khi đã trừ các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ như:
Số tiền phải thu phát sinh trong kỳ bao gồm: Thu phí bảo hiểm gốc, thu phí nhận tái bảo hiểm, thu hoa hồng nhượng tái bảo hiểm, thu phí dịch vụ đại lý như giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%, thu phí giám định tổn thất không kể giám định nội bộ trong cùng một doanh nghiệp bảo hiểm hạch toán độc lập.
Các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ bao gồm: Hoàn phí bảo hiểm; giảm phí bảo hiểm; phí nhượng tái bảo hiểm; hoàn phí nhận tái bảo hiểm; giảm phí nhận tái bảo hiểm; hoàn hoa hồng nhượng tái bảo hiểm; giảm hoa hồng nhượng tái bảo hiểm.
Doanh thu hoạt động tài chính: Thu từ hoạt động mua bán chứng khoán; thu lãi trên số tiền ký quỹ; thu cho thuê tài sản; thu khác theo quy định của pháp luật.
Thu nhập hoạt động khác: Thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định; các khoản nợ khó đòi đã xoá nay thu hồi được; thu khác theo quy định của pháp luật.
Còn đối với doanh thu của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm theo Điều 24 của Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 được xác định là số tiền phải thu phát sinh trong kỳ từ hoạt động môi giới bảo hiểm, hoạt động tài chính và thu nhập hoạt động khác. Cụ thể:
Doanh thu từ hoạt động môi giới như hoa hồng môi giới bảo hiểm sau khi trừ đi khoản hoa hồng môi giới bảo hiểm, giảm hoa hồng môi giới bảo hiểm và các khoản thu khác mà pháp luật quy định.
Doanh thu từ hoạt động tài chính: Thu từ hoạt động mua bán chứng khoán; lãi tiền gửi, lãi trên số tiền cho vay; cho thuê tài sản...
Có thể bạn quan tâm!
- Những Vấn Đề Pháp Lý Cơ Bản Về Quản Lý Doanh Thu, Chi Phí Và Lợi Nhuận Của Công Ty Cổ Phần
- Khái Niệm Lợi Nhuận Và Nguyên Tắc Xác Định Lợi Nhuận
- Mục Tiêu Quản Lý, Chủ Thể Quản Lý Và Phương Thức Quản Lý Doanh Thu, Chi Phí Và Lợi Nhuận Trong Công Ty Cổ Phần
- Đánh Giá Thực Trạng Quản Lý Doanh Thu, Chi Phí Đối Với Ctcp Theo Luật Kế Toán, Theo Pháp Luật Thuế
- Đặc Thù Về Quản Lý Doanh Thu, Chi Phí Trong Nội Bộ Ctcp
- Định Hướng Và Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Việt Nam Về Quản Lý Doanh Thu, Chi Phí Và Lợi Nhuận Trong Công Ty Cổ Phần
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Thu nhập từ hoạt động khác như: Thu từ chuyển nhượng, thanh lý tài sản cố định; các khoản nợ khó đòi đã xóa nay thu hồi được...
* Đối với chi phí
Như đã phân tích ở chương 1, chi phí được xác định là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán của doanh nghiệp và các chi phí này có tính thường xuyên, gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói cách khác chi phí ảnh hưởng đến vốn của chủ sở hữu. Đối với CTCP việc xác định chi phí cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc của Luật kế toán và pháp luật về thuế.
Đối với Luật kế toán, sự tuân thủ đó được biểu hiện thông qua việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ, hóa đơn.
Đối với pháp luật về thuế đó là việc kê khai, lập báo cáo tài chính trung thực, khách quan.
Chi phí của CTCP chủ yếu bao gồm chi phí thù lao, chi phí huy động vốn
Chi phí thù lao
Theo quy định tại Điều 117 của Luật doanh nghiệp hiện hành, chi phí thù lao thể hiện qua việc trả thù lao, tiền lương và các lợi ích khác của thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và BKS theo kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh. Trong trường hợp nếu Điều lệ công ty không có quy định khác thì các khoản chi phí trên được trả như sau: Đối với thành viên HĐQT được hưởng thù lao công việc và tiền thưởng, thù lao công việc được tính theo số ngày công cần thiết hoàn thành nhiệm vụ và mức thù lao mỗi ngày. HĐQT dự tính mức thù lao trả cho từng thành viên theo nguyên tắc
nhất trí, theo đó tổng mức thù lao do ĐHĐCĐ quyết định tại cuộc họp thường niên. Ngoài ra thành viên HĐQT có quyền được thanh toán các chi phí ăn, ở, đi lại và chi phí hợp lý khác khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc được trả lương và tiền thưởng. Mức tiền lương do HĐQT quyết định.
Các khoản chi phí kể trên được tính vào chi phí kinh doanh của công ty theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và phải được thể hiện thành mục riêng trong báo cáo tài chính hàng năm của công ty, đồng thời phải báo cáo ĐHĐCĐ tại cuộc họp thường niên.
Ngoài ra, tại Điều 125 Luật doanh nghiệp hiện hành cũng quy định chi phí thù lao và các lợi ích khác đối với thành viên BKS. Nếu như Điều lệ công ty không có quy định khác thì thành viên BKS được trả thù lao theo công việc cũng như được hưởng các lợi ích khác theo quyết định của ĐHĐCĐ. ĐHĐCĐ quyết định tổng mức thù lao và ngân sách hoạt động hàng năm của BKS căn cứ vào số ngày làm việc dự tính, số lượng, tính chất công việc và mức thù lao bình quân hàng ngày. Thành viên BKS cũng được thanh toán chi phí ăn ở, đi lại, chi phí sử dụng dịch vụ tư vấn độc lập với mức hợp lý nhưng không được vượt quá tổng ngân sách hoạt động hàng năm của BKS đã được ĐHĐCĐ thông qua. Mức thù lao này được tính vào chi phí kinh doanh của công ty theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, pháp luật liên quan và phải được lập thành mục riêng thể hiện trong báo cáo tài chính hàng năm của công ty.
Chi phí huy động vốn
Đối với CTCP chi phí này phát sinh từ việc đi vay để thực hiện các dự án, hoạt động kinh doanh và chi phí phát hành cổ phần.
Ngoài ra đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, cơ sở xác định chi phí cũng được quy định cụ thể tại Nghị định 46
/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, chi phí là số
tiền phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ bao gồm: Chi phí hoạt động kinh doanh, chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động khác như bồi thường bảo hiểm gốc đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo hiểm đối với bảo hiểm nhân thọ, chi bồi thường nhận tái bảo hiểm; trích lập dự phòng nghiệp vụ; chi hoa hồng bảo hiểm...[7].
Trên thực tế cho thấy, hoạt động quản lý chi phí được tách rời đối với công tác kế toán thống kê. Việc quản lý chi phí là tổng hợp đánh giá thực trạng về việc sử dụng các nguồn vốn và chi phí, từ đó đưa ra những quyết định về các chi phí ngắn hạn cũng như dài hạn đối với công ty. Đối với CTCP, loại hình có nhiều cổ đông và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp cho nên việc quản lý chi phí hết sức cần thiết. Do đó muốn bảo vệ được quyền lợi của chủ sở hữu, nhà đầu tư cũng như các cổ đông đòi hỏi bộ phận quản lý chi phí của công ty phải dựa vào các thống kê kế toán, báo cáo doanh thu, báo cáo nhân sự và tiền lương...do bộ phận kế toán thống kê, cung cấp đồng thời kết hợp với các yếu tố khách quan để tiến hành tổng hợp, phân tích đánh giá chi phí để có thể tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu và đạt được lợi nhuận cao. Khi tiến tới quản lý chi phí một trong những vấn đề thường gặp nhất là "Vô tình loại bỏ những thứ quý giá trong đống lộn xộn cần phải quẳng đi" [36]. Thách thức đối với doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng phải làm sao tổ chức một bộ máy nội bộ kiểm soát tốt chi phí của công ty. Ngoài vai trò của ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS phải kể đến vai trò của kế toán trong công ty.
2.1.2. Tổ chức nội bộ kiểm soát doanh thu, chi phí
* Đối với doanh thu
Theo Luật doanh nghiệp hiện hành, trong CTCP không quy định cụ thể về tổ chức nội bộ kiểm soát doanh thu nhưng tại Điều 95 quy định cụ thể cơ cấu tổ chức quản lý của công ty gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và BKS (công ty có trên 11 cổ đông). Theo đó có thể hiểu tổ chức
nội bộ kiểm soát doanh thu của CTCP về cơ bản bao gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và BKS.
Do doanh thu được phản ánh qua báo cáo kết quả kinh doanh của công ty thể hiện trên số liệu ghi trên báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp bao gồm các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí và lợi nhuận của hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác. Theo GS.TS Ngô Thế Chi & PGS.TS. Nguyễn Trọng Cơ (2009): "Số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được sử dụng để tính toán các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước về các khoản phải nộp. Cùng với số liệu trên bảng cân đối kế toán, số liệu trên bảng cân đối kế toán được sử dụng để tính toán hiệu quả sử dụng vốn, các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận..."[21, tr.61].
Đối với CTCP, một loại hình doanh nghiệp có số lượng cổ đông lớn do không hạn chế về số lượng, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn mà họ đã góp vào doanh nghiệp đã tạo nên đặc thù phân tách giữa sở hữu và quản lý, sở hữu và điều hành. Vì vậy, trong CTCP không phải tất cả người góp vốn đều có thể tham gia quản lý, điều hành để trực tiếp sử dụng vốn và tài sản của công ty cũng như quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận... Tổ chức, cá nhân góp vốn có thực hiện quyền quản lý một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua tổ chức được ủy quyền, tạo ra cơ chế giám sát nội bộ nhằm đảm bảo tính hợp lý, hợp pháp trong các quyết định tạo lập, sử dụng vốn và tài sản, doanh thu, chi phí và phân phối lợi nhuận...của công ty nhằm bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu và chủ nợ.
Doanh thu của CTCP phụ thuộc vào quá trình hoạt động kinh doanh của công ty có lãi hay thua lỗ. Biểu hiện của doanh thu là số tiền bán hàng thu được hoặc qua các hợp đồng, giao dịch ký kết. Theo đó, Luật doanh nghiệp hiện hành tại Điều 120 quy định: Hợp đồng, giao dịch phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận trong các trường hợp ký kết giữa công ty với các đối tượng sau:
Cổ đông, người đại diện ủy quyền của cổ đông sở hữu trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và người có liên quan.
Thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Thành viên HĐQT, thành viên BKS, Giám đốc hoặc tổng giám đốc và những người có liên quan cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng cổ phần hoặc phần vốn góp trên 35% vốn điều lệ.
Bên cạnh đó, HĐQT chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ lệ nhỏ hơn nếu Điều lệ công ty có quy định. Các trường hợp khác do ĐHĐCĐ quyết định. Đồng thời HĐQT phải trình dự thảo hợp đồng hoặc giải trình về nội dung chủ yếu của giao dịch tại cuộc họp ĐHĐCĐ hoặc lấy ý kiến cổ đông. Hợp đồng hoặc giao dịch được chấp thuận khi có số cổ đông đại diện 65% tổng số phiếu còn lại biểu quyết.
Ngoài ra, Luật doanh nghiệp hiện hành cũng quy định trường hợp CTCP có trên 11 cổ đông là các nhân và cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần phải thiết lập BKS để một mặt giám sát HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý điều hành công ty. Mặt khác hỗ trợ quản lý doanh thu có hiệu quả. Cụ thể, BKS có quyền và nghĩa vụ: Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính; Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT lên ĐHĐCĐ tại cuộc họp thường niên; Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành công ty nếu xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của ĐHĐCĐ [Điều 123]. Hơn thế nữa, hoạt động của BKS trong công ty niêm yết được quy định tại Thông tư 121/2012/TT- BTC ngày 26/7/2012 đã có kế thừa quy định về trách nhiệm của BKS theo
Quy chế quản trị công ty ban hành kèm theo Quyết định số 12/2007/QĐ-TTC
. Đó là BKS có trách nhiệm giám sát tình hình tài chính công ty, tính hợp pháp trong các hoạt động của thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công ty và cổ đông [Khoản 1 Điều 121]. Việc quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ BKS thực hiện quá trình kiểm tra, giám sát có hiệu quả.
Ngược lại, theo Luật doanh nghiệp hiện hành, đối với CTCP không thiết lập BKS, các cổ đông thông qua ĐHĐCĐ quyết định giám sát phù hợp đối với hoạt động quản lý của HĐQT, các thành viên HĐQT và thông qua HĐQT để giám sát hoạt động điều hành của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Thực tế cho thấy vai trò quan trọng của HĐQT và BKS trong việc kiểm soát doanh thu của CTCP. Tuy nhiên, theo Luật doanh nghiệp hiện hành, chủ tịch HĐQT có thể kiêm chức danh Giám đốc hoặc Tổng giám đốc [Khoản 1 Điều 111] trong khi đó, chủ tịch HĐQT lại được giao giám sát quá trình thực hiện các quyết định của HĐQT [điểm d Khoản 2 Điều 111] tạo nên sự hạn chế trong việc quản lý vì tâm lý “cả nể”. Còn đối với BKS việc thực hiện việc giám sát có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực cũng như phẩm chất của các thành viên.
Đối với CTCP có hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức kiểm soát doanh thu được thể hiện qua hoạt động chào bán chứng khoán. Cụ thể là:
Theo quy định tại Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật chứng khoán quy định chi tiết và cụ thể về chào bán chứng khoán, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, tại Điều 4 quy định điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCP chưa đại chúng phải có quyết định
của ĐHĐCĐ thông qua phương án chào bán cổ phiếu riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán, đồng thời đáp ứng các điều kiện khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành trong trường hợp tổ chức phát hành là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Ngoài ra HĐQT thông qua tiêu chí và danh sách lựa chọn đối tượng được chào bán trong trường hợp ĐHĐCĐ ủy quyền. Trường hợp CTCP chào bán chứng khoán ra công chúng với điều kiện chào bán trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có kèm theo chứng quyền đều phải có phương án chào bán và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được ĐHĐCĐ thông qua. Trường hợp CTCP hình thành sau quá trình hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp ngoài điều kiện đáp ứng quy định của Luật chứng khoán hiện hành phải có thời gian hoạt động 01 năm trở lên kể từ ngày thực hiện hoạt động hợp nhất, sáp nhập và có kết quả kinh doanh có lãi tính từ thời điểm đăng ký chào bán và phải có cam kết của ĐHĐCĐ (đối với cổ phiếu và trái phiếu chuyển đổi) hoặc HĐQT (đối với trái phiếu) đưa chứng khoán vào giao dịch tại thị trường tập trung trong thời hạn 01 năm kể từ ngày kết thúc đợt chào bán. Đối với các trường hợp CTCP phát hành thêm cổ phiếu để hoán đổi, để trả cổ tức, để tăng vốn chủ sở hữu đều phải có quyết định của ĐHĐCĐ thông qua và có phương án cụ thể...
Đối với trường hợp CTCP chào bán cổ phiếu tạị nước ngoài phải được sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể NHNN Việt Nam đối với tổ chức tín dụng, Bộ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm, UBCKNN đối với công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán [Điều 28, 12]. Trong quá trình sử dụng vốn huy động từ đợt chào bán ra nước ngoài, định kỳ 06 tháng kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành phải báo cáo UBCKNN về tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán. Trường hợp thay đổi mục đích sử dụng vốn phải báo cáo UBCKNN và phải công bố thông tin về lý do quyết định thay đổi.