hoạt động chính của Tôn Trung Sơn và đánh giá về nhân vật này. Đồng thời, để giúp HS thấy được ảnh hưởng của chủ nghĩa Tam Dân và cách mạng Tân Hợi đối với Việt Nam, GV giới thiệu về các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cùng với những quan điểm của họ, từ đó HS sẽ rút ra điểm kế thừa trong tư tưởng của 2 cụ Phan đối với chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn như thế nào?
Hình 2.9. Phiếu học tập tìm hiểu về Tôn Trung Sơn
+ Hoạt động củng cố:
Trong hoạt động này với mục đích giúp HS nhớ lại toàn bộ nội dung bài học, GV lựa chọn việc củng cố bài học thông qua video tư liệu LS. GV sử dụng video “Đại Thanh đế quốc” (https://www.youtube.com/watch?v=RrwnIWwqiD4) để HS theo dõi trực tiếp trên Padlet. Trên cơ sở đó, GV hướng dẫn HS ghi lại tên các nhân vật LS, các sự kiện LS được nhắc đến trong video. Bằng việc thực hiện nhiệm vụ này, HS một lần nữa tự kiểm tả được những kiến thức còn đọng lại và được cụ thể hóa nội dung bài học một cách sinh động hơn.
+ Hoạt động luyện tập:
GV chuẩn bị sẵn câu hỏi trắc nghiệm với mục đích kiểm tra các mức độ khác nhau liên quan đến nội dung bài học. Các câu hỏi này được thiết kế trên Kahoot nhằm tạo hứng thú và không khí học sôi nổi cho HS. Có 10 câu hỏi được soạn thảo với 4 mức độ từ nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao. Nội dung các câu hỏi cũng bao phủ toàn bộ nội dung bài học.
Hình 2.10. Minh họa câu hỏi trắc nghiệm thiết kế trên Kahoot
+ Hoạt động vận dụng, mở rộng.
Đây là nhiệm vụ không bắt buộc giành cho các HS yêu thích và muốn được tham gia. Trong hoạt động này, nhiệm vụ GV giao cho HS là “Giả sử được trở thành một nhân vật lịch sử trong bài học này, em sẽ chọn nhân vật nào? Vì sao em lại lựa chọn nhân vật đó?”.
Đa số các em tham gia thực hiện nhiệm vụ này đều lựa chọn các nhân vật gắn với các phong trào yêu nước ở Trung Quốc như Hồng Tú Toàn, Khang Hữu Vy, Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn. Việc các em lựa chọn và đưa ra các lí do dù mới chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính, liệt kê các vai trò của các nhân vật đối với LS nhưng ít nhiều đã thể hiện được cách nhìn của HS, sự quan tâm của HS đối với các nhân vật và bài học. Điều này có ý nghĩa giáo dục rất lớn.
* Sau giờ học sử dụng Padlet trên lớp.
Sau khi tìm hiểu xong bài học qua Padlet, GV lấy ý kiến phản hổi của HS. Ý kiến phản hồi tập trung vào 2 vấn đề
- Trong bài học này, thích học nội dung nào nhất? vì sao?
- Điều gì em muốn biết thêm sau bài học này?
Căn cứ vào đó GV có thể đánh giá sơ bộ được kết quả của việc thực hiện mục tiêu của bài học, đồng thời tiếp tục dặn dò và hướng dẫn để các em có thể hiểu bài với mức độ cao nhất và phát triển được khả năng tự học.
2.4.5. Kết quả thử nghiệm
Kết quả thử nghiệm được đánh giá trên cả hai phương diện là định tính và định lượng.
Về mặt định tính, kết quả thử nghiệm căn cứ vào nhận xét đánh giá của GV về thái độ của HS trong các giờ học, tính tích cực khi tham gia các hoạt động học tập và mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của các em; phản hồi, cảm nhận của HS sau mỗi giờ học. Sau một thời gian (4 tuần) tiến hành thử nghiệm đối với lớp 11 C, chúng tôi nhận thấy có một số sự thay đổi rõ rệt cả về kiến thức, kĩ năng và thái độ của HS. Những thay đổi này được biểu hiện ở 1 số điểm sau:
- Ở giờ học đầu tiên khi GV tiến hành hướng dẫn HS tìm hiểu và sử dụng Padlet trong học tập, HS còn rất bỡ ngỡ, thậm chí có HS chưa biết cách truy cập vào một trang Web, chưa biết cách đăng ký địa chỉ gmail và các tài khoản trực tuyến thì sau giờ học đầu tiên trên Padlet, hầu hết các em đã có được những kĩ năng cơ bản nhất để làm việc với máy tính nói chung và thực hiện các thao tác trên Padlet nói riêng.
- Tại trường THPT Hoa Lư A, việc chuẩn bị bài, đọc trước SGK trong môn Lịch sử vốn ít được cả GV và HS chú trọng. Tuy nhiên với HS lớp 11C khi được thực hiện các nhiệm vụ học tập trên Padlet, các em tỏ ra rất hào hứng với việc tự mình lĩnh hội kiến thức. Các em đã biết tự tìm các tài liệu tham khảo, tự đọc SGK để tìm ra ý chính, từ khóa… trong mỗi bài học. Các câu hỏi hay yêu cầu GV đưa ra, các em đều thực hiện một cách nhanh nhất trong điều kiện có thể.
- Nếu như trước đây, HS chưa quen với việc tự tổng hợp kiến thức ở nhà trước mà chỉ chờ vào việc giảng dạy của GV trên lớp thì sau thời gian thử nghiệm,
đa số HS đã sẵn sàng và quen với việc hoạt động nhóm để cùng tìm hiểu một nội dung trong sách, biến thành sản phẩm của mình và chia sẻ với cả lớp.
- Bản thân mỗi HS cũng biết tự đánh giá mình và tự đánh giá các bạn khác trong lớp. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS đã biết tự góp ý cho các bạn trong lớp trên cả 2 phương diện là điểm tích cực và hạn chế. Sau mỗi tiết học, các sản phẩm được hoàn thiện hơn và việc đánh giá của HS cũng khoa học hơn, tích cực hơn.
Về phía GV, chúng tôi thấy rằng việc sử dụng Padlet trong dạy học LSTG cận đại 11 đã thực sự tạo cho HS hứng thú trong giờ học. Cũng vẫn chỉ trong khuôn khổ 1 tiết học trên lớp nhưng các em được tiếp xúc với nhiều kênh thông tin hơn, trải nghiệm nhiều hoạt động hơn với nhiều công cụ hơn… Chính vì vậy HS đã có cơ hội phát triển nhiều năng lực khác nhau trong đó đặc biệt nổi bật là NLTH.
Về phía HS, sau mỗi bài học trên Padlet, chúng tôi thường có câu hỏi phỏng vấn về cảm giác của các em sau khi học xong bài học trên Padlet, đa số các em đều cho biết là cảm thấy thích thú hơn, hấp dẫn hơn so với những giờ học truyền thống trước kia. Các em cũng hiểu bài sâu sắc hơn, nhớ lâu hơn vì gần như mọi hoạt động các em đều được tham gia trong bài học.
Về mặt định lượng, kết quả thử nghiệm dựa trên kết quả những bài kiểm tra về mức độ HS đạt được cả về kiến thức, kĩ năng, thái độ hoặc những sản phẩm các em hoàn thành, các phiếu học tập các em đã được giao, tổng hợp góp ý nhận xét của GV và HS. Khi tham gia trả lời các câu hỏi trắc nghiệm trực tuyến trên Kahoot, kết quả cụ thể của các em như sau:
Hình 2.11. Kết quả kiểm tra trên kahoot
Ngoài kết quả cụ thể bằng điểm số của bài kiểm tra, NLTH của HS cũng được phát triển một cách rõ rệt. Sau quá trình thử nghiệm, HS được phát lại phiếu khảo sát về mức độ biểu hiện của NLTHLS như ban đầu. Ở lần thứ 2, sau khi thử nghiệm, kết quả khảo sát thu được như sau
Bảng 2.7. Kết quả khảo sát mức độ biểu hiện năng lực tự học của học sinh sau thử nghiệm
Mức độ 1 | Mức độ 2 | Mức độ 3 | ||||
Số lượng | Tỉ lệ % | Số lượng | Tỉ lệ% | Số lượng | Tỉ lệ% | |
Tìm hiểu LS | 2 | 4,54 | 34 | 77,27 | 8 | 18,18 |
Nhận thức và tư duy LS | 5 | 11,36 | 31 | 70,45 | 8 | 18,18 |
Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học | 16 | 36,36 | 21 | 47,72 | 7 | 15,9 |
Có thể bạn quan tâm!
- Sử Dụng Padlet Để Hướng Dẫn Học Sinh Tự Kiểm Tra Đánh Giá Trong Giờ Học Trên Lớp
- Sử Dụng Padlet Trong Hướng Dẫn Học Sinh Tự Học Ở Nhà
- Kết Quả Khảo Sát Mức Độ Biểu Hiện Năng Lực Tự Học Của Học Sinh Trước Thử Nghiệm
- Phiếu Khảo Sát Phiếu Khảo Sát Giáo Viên
- Sử dụng Padlet nhằm phát triển năng lực tự học phần Lịch sử thế giới cận đại lớp 11 cho học sinh trường Trung học phổ thông Hoa Lư A - Ninh Bình - 16
- Sử dụng Padlet nhằm phát triển năng lực tự học phần Lịch sử thế giới cận đại lớp 11 cho học sinh trường Trung học phổ thông Hoa Lư A - Ninh Bình - 17
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
So sánh kết quả khảo sát trước và sau khi thử nghiệm cho thấy HS đã phát triển được NLTH một cách rõ rệt. Nếu như trước khi thử nghiệm, HS còn mơ hồ trong việc phân biệt các loại hình tư liệu LS khác nhau thì sau 3 tiết học, với hoạt động tự chuẩn bị, tự tìm tài liệu... HS đã biết phân biệt được bản đồ, lược đồ, biểu
đồ... HS cũng đã bước đầu quen với cách thức sử dụng các tư liệu đó. HS cũng đã tự trình bày lại được hoặc viết lại được một vấn đề LS trong đó có chỉ ra được những nội dung chính như nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa, hạn chế... Nghĩa là ở NL tìm hiểu LS, HS đã đạt được từ mức độ M1 lên M3.
Đối với NL nhận thức và tư duy LS, HS đã bước đầu biết giải thích nguồn gốc các sự kiện hiện tượng, biết so sánh điểm giống và khác nhau giữa các phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc. Tuy nhiên sự so sánh chưa thực sự sâu sắc và việc đánh giá còn sơ sài, thiếu sót. Ở NL nhận thức và tư duy LS, HS đã có sự tiến bộ đạt được mức độ M2, đặc biệt có 8 HS đã đạt mức độ M3.
Đối với NL vận dụng, đây là NL HS còn yếu nhất trong quá trình thử nghiệm. Chỉ 1 số em có khả năng rút ra bài học LS sau mỗi bài học và khả năng vận dụng vào thực tế còn hạn chế. Sở dĩ còn tồn tại như vậy vì điều này chưa được thực hiện thường xuyên trong mỗi giờ học, nếu có chăng thì cũng chỉ trong một số bài và người rút ra bài học lại chính là GV. Chính vì vậy HS còn lúng túng khi làm quen với hoạt động này. Ở NL vận dụng, sự tiến bộ của HS đã có nhưng còn hạn chế mới vượt qua mức M1 nhưng chưa đủ đến mức M3.
Ngoài việc đánh giá sự tiến bộ của HS thể hiện qua điểm số và các sản phẩm của HS, chúng tôi còn thực hiện đánh giá qua phỏng vấn. Khi được hỏi “nếu được lựa chọn giữa việc học LS theo cách truyền thống với cách học thông qua Padlet như đã thực hiện, em sẽ lựa chọn cách học nào vì sao?” thì hầu hết các HS đều lựa chọn được học tập trên Padlet với sự hướng dẫn trực tiếp của các GV. Khi được hỏi lí do vì sao thì đa số các em đều nói tới ưu thế của việc học trên Padlet mang lại cho các em hứng thú học tập cao hơn. Ở một trường huyện như trường THPT Hoa Lư A, việc được sử dụng máy tính kết nối internet để học tập đối với các em thực sự là một trải nghiệm đầy hấp dẫn. Các em được “tự làm”, tự đánh giá, tự cho điểm…và tất cả những kết quả đó được lưu giữ lại đã mang đến cho bản thân HS một sự tự thỏa mãn nhất định. Điều này chứng tỏ rằng bước đầu Padlet đã có tác dụng trong việc tạo ra hứng thú học LS đối với HS. Các em đều cho rằng khi học tập trên Padlet, các em được cuốn vào bài học thật sự, học LS thật sự và thành thạo thêm nhiều kĩ năng khác phục vụ cho quá trình học tập mà không chỉ trong môn LS.
Tiểu kết chương 2
Hiện nay vấn đề đổi mới giáo dục luôn được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Việc chuyển đổi từ mô hình giáo dục tiếp cận kiến thức sang mô hình giáo dục tiếp cận năng lực đã thôi thúc sự đổi mới trong mọi khâu của quá trình dạy học. Một trong những NL cốt lõi mà chương chình giáo dục phổ thông mới đề cập đến là NLTH. Phần LSTGCĐ lớp 11 với nội dung rất phong phú và đa dạng, hoàn toàn phù hợp cho việc lựa chọn các biện pháp nhằm phát triển NLTH cho HS trường THPT Hoa Lư A.
Để có thể hình thành và phát triển được NLTH cho HS không phải là việc làm trong một sớm một chiều mà nó là cả một quá trình đòi hỏi sự cố gắng, hợp tác thường xuyên và liên tục đối với cả GV và HS. Chính vì vậy, lựa chọn biện pháp nào để phát triển NLTH cho HS còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau nhưng phải hướng đến việc khắc phục những hạn chế vốn có của HS và tạo điều kiện để các em được sáng tạo, chủ động trong học tập.
Mặc dù quá trình thử nghiệm sư phạm ban đầu còn có một số khó khăn nhưng những biện pháp được đề xuất và kết quả sau quá trình thử nghiệm đã cho thấy tính khả thi của đề tài. Chúng tôi tin rằng với quyết tâm đổi mới trong tư duy và sẵn sàng trong hành động của GV cộng với sự ủng hộ của HS, chắc chắn đề tài sẽ được triển khai hiệu quả tại trường THPT Hoa Lư A tỉnh Ninh Bình.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ như hiện nay, nhiệm vụ của ngành giáo dục là đào tạo ra những người lao động có trí thức, có tư duy sáng tạo, tích cực chủ động trong mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy giáo dục phải đổi mới để có thể đáp ứng được yêu cầu của thời đại, đặc biệt chú trọng đến việc phát triển năng lực cho người học. Trong hệ thống các NL được xây dựng thì NLTH là một trong những NL cốt yếu, mang tính tiên quyết đối với người học ở thế kỉ XXI. Đối với HS trường THPT Hoa Lư A, NLTH là một trong những NL hàng đầu cần hướng đến để khắc phục tính thụ động trong học tập của HS.
Trên thực tế, HS trường THPT Hoa Lư A tỉnh Ninh Bình về cơ bản là có truyền thống ham học nhưng việc học mới chủ yếu phụ thuộc vào việc truyền thụ kiến thức của GV trên lớp, dựa vào SGK là chủ yếu. Các em chưa có nhiều cơ hội để được học tập với những môi trường khác nhau như học tại thực địa, học trực tuyến… Chính vì vậy, các em chưa chủ động trong việc tự tìm hiểu kiến thức, tự phát hiện vấn đề và tự tìm cách giải quyết các vấn đề đó trong học tập và trong cuộc sống. Với sự phong phú đa dạng của nguồn tài nguyên học tập như hiện nay thì việc các em chưa biết cách tự học là một sự lãng phí. Chính vì vậy, để giúp các em chủ động hơn, tích cực hơn thì nhất định phải hướng dẫn và phát triển NLTH cho các em.
Trên cơ sở lý luận về NLTH, nghiên cứu nội dung phần LSTG cận đại lớp 11, chúng tôi đề xuất một số biện pháp sư phạm có thể vận dụng trong tổ chức DH nhằm khắc phục những yếu kém, qua đó dần hình thành và phát triển NLTH cho HS trường THPT Hoa Lư A. Những biện pháp này bước đầu đã được thử nghiệm, chứng minh được tính khả thi và mang lại hiệu quả của nó trong quá trình triển khai.
Để tổ chức DHLS theo hướng phát triển NLTH đạt hiệu quả, đầu tiên đòi hỏi người GV phải có tâm với nghề, có chuyên môn LS và lý luận dạy học bộ môn vững vàng. Bên cạnh đó, người GV cũng phải là người sẵn sàng đi tiên phong, sẵn sàng thay đổi cả tư duy và hành động, sẵn sàng gạt bỏ những thói quen đã ăn sâu vào mình trong quá trình giảng dạy để tiếp cận với những con đường, biện pháp