và Địa lí (phần địa lí kinh tế - xã hội, dân cư) tuy có những mục tiêu cụ thể riêng nhưng đều thuộc nhóm Khoa học xã hội nhân văn, đều nghiên cứu những vấn đề của con người, xem xét các mối quan hệ mang tính qui luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Các vùng lãnh thổ Việt Nam, khu vực Đông Nam Á, châu Âu, châu Á,... đều được bộ môn Lịch sử và Địa lí nghiên cứu. Mặc dù, môn Địa lí chú ý đến yếu tố không gian, lãnh thổ của các sự vật, hiện tượng đang diễn ra hiện nay còn môn Lịch sử chú ý đến tính lịch đại, đến quá trình hình thành và phát triển của xã hội nhưng xét cho cùng đều hướng tới bổ sung cho nhau, giúp học sinh có được những tri thức đầy đủ, toàn diện về những sự vật, hiện tượng được nghiên cứu. Về mặt phương pháp, trong quá trình dạy học, giáo viên Lịch sử hay Địa lí đều chủ yếu vận dụng các phương pháp dạy học theo lối qui nạp, đi từ phân tích các hiện tượng, sự kiện cụ thể đơn lẻ để dẫn tới những nhận xét, kết luận mang tính khái quát; đều trang bị cho học sinh cách thức làm việc với các nguồn thông tin khác nhau để hình thành những năng lực cần thiết, vận dụng kiến thức được học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trong khai thác phương tiện trực quan hỗ trợ dạy và học, hai môn Lịch sử, Địa lí đều sử dụng bản đồ, lược đồ như nguồn tri thức quan trọng. Mặc dù đối tượng và mục tiêu cụ thể khi sử dụng khác nhau nhưng qui trình, phương thức xác định kiến thức từ bản đồ, lược đồ trang bị cho học sinh đều cơ bản tuân theo những bước giống nhau. Vì vậy, giáo viên vận dụng tốt kiến thức, kĩ năng của môn Địa lí trong dạy học Lịch sử (và ngược lại) sẽ tích cực nâng cao chất lượng dạy học đồng thời còn có ý nghĩa giảm tải cho học sinh trong quá trình học tập, giúp các em thấy hứng thú và say mê môn học hơn.
1.1.3.3. Mối quan hệ giữa kiến thức Lịch sử và Giáo dục công dân
Mục tiêu của giáo dục trong trường phổ thông là hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, trang bị cho các em những hiểu biết cơ bản về văn hóa, đạo đức, kiến thức, kĩ năng để trở thành những công dân tốt cho xã hội. Từ đó có thể thấy, môn Lịch sử và Giáo dục công dân có mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ để cùng góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục chung. Môn Giáo dục công dân trang bị cho các em những tri thức nền tảng về sự vận động, phát triển khách quan của sự vật, hiện tượng; hướng tới hình thành thế giới quan, nhân sinh quan khoa học; giáo dục lí tưởng, lòng yêu nước, tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất
nước… Vì vậy, kiến thức của bộ môn này nếu được giáo viên Lịch sử vận dụng trong quá trình giảng dạy sẽ hỗ trợ tích cực cho học sinh khi nhận thức về qui luật phát triển trong lịch sử, phương thức nhìn nhận, đánh giá các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá khứ để từ đó vận dụng vào cuộc sống, giải quyết các vấn đề thực tiễn. Hơn thế nữa, bộ môn Lịch sử và Giáo dục công dân còn có những đơn vị kiến thức tương đồng khi cùng xem xét về đối tượng cụ thể trong đời sống con người như: tìm hiểu về nguồn gốc, đặc điểm, sự hình thành, phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam; tìm hiểu về Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng… Chính vì thế, để nâng cao hiệu quả giờ học Lịch sử, người giáo viên nhất thiết cần phải nắm được những nội dung cơ bản trong khóa trình môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông để vận dụng vào các bài học, giải thích các đơn vị kiến thức lịch sử theo nguyên lí chủ nghĩa Mác - Lê nin, phát huy một cách hiệu quả nhất mối quan hệ “Văn Sử Triết bất phân” trong quá trình dạy học theo nguyên tắc liên môn.
1.1.3.4. Mối quan hệ giữa kiến thức Lịch sử với các môn học khác
Tri thức lịch sử là sự phản ánh toàn bộ những giá trị văn hóa mà con người tạo ra trong quá trình phát triển, chinh phục tự nhiên và cải biến xã hội. Vì vậy, bộ môn Lịch sử còn có những bài học tìm hiểu về các thành tựu văn hóa, khoa học - kĩ thuật, nghệ thuật của con người qua các giai đoạn lịch sử. Theo đó, bản thân người giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử không chỉ nắm sâu kiến thức chuyên ngành, hiểu rõ chương trình những môn thuộc nhóm Khoa học xã hội mà còn phải có những hiểu biết nhất định về Khoa học tự nhiên, kĩ thuật, nghệ thuật, khảo cổ học, dân tộc học… để từ đó hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức liên môn đã học trong chương trình để hiểu thêm về tri thức lịch sử.
Ví dụ, giáo viên Lịch sử cần vận dụng kiến thức liên môn với nhóm môn Khoa học tự nhiên khi giảng dạy về văn hóa cổ đại phương Đông, phương Tây; bài thành tựu văn hóa thời cận đại để có thể hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức đã học về một số định lí, định đề Pitago, Talét, Ácsimét, Ơcơlít… giải thích và thấy được đóng góp của các nhà khoa học đối với sự phát triển của loài người. Cũng trong nhóm bài học về thành tựu văn hóa, giáo viên Lịch sử cũng cần có những hiểu biết cơ bản về
nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc… để giúp học sinh lĩnh hội một cách hiệu quả nhất những thành tựu của con người ở mỗi giai đoạn phát triển cụ thể trong lịch sử, giúp các em biết trân trọng những thành quả chung trong văn hóa nhân loại, ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc.
Hiện nay các nước có nền giáo dục tiên tiến đang phát triển mạnh giáo dục STEM (tích hợp Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học). Trên nền tảng đó, các nhà giáo dục đang phổ biến rộng rãi giáo dục STEAM (kết hợp giữa Nghệ thuật với các môn học STEM truyền thống). STEAM là một phương pháp tiếp cận giáo dục kiểu mới, trong đó Khoa Học, Công Nghệ, Kỹ Thuật, Nghệ Thuật, và Toán Học được sử dụng để giảng dạy và hướng dẫn cho học sinh. Nó nhấn mạnh việc học tập dựa trên thực hành thay vì theo cách giáo dục truyền thống trang bị kiến thức lý thuyết. STEAM là một sự chuyển đổi từ cách thức đánh giá chất lượng giáo dục dựa vào tiêu chuẩn điểm số để chuyển sang mục đích giúp học sinh hiểu được sự liên quan giữa các khối kiến thức và có thể vận dụng tốt vào thực tế.
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
Sử dụng KTLM là một trong những yêu cầu chỉ đạo của Đảng về đổi mới một cách căn bản và toàn diện giáo dục, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của cuộc sống. Đây được xem như nguyên tắc cần tuân thủ trong dạy học ở trường phổ thông nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng bởi môn Lịch sử cung cấp cho học sinh tri thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nên có sự liên quan mật thiết đến kiến thức của các bộ môn khác.
Sử dụng KTLM được coi là phương pháp, cách thức không thể thiếu trong việc tiếp cận đến bản chất của vấn đề học tập, giúp giáo viên đưa nội dung bài học vượt ra khỏi khuôn khổ của sách giáo khoa, mở rộng tri thức và giúp học sinh thấy được tính hệ thống, thống nhất trong các tri thức được trang bị ở trường phổ thông cũng như tăng cường khả năng vận dụng vào thực tiễn. Người giáo viên khi làm tốt việc khai thác KTLM trong dạy học chính là đã và đang tích cực thực hiện đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Vận dụng KTLM trong giảng dạy lịch sử ở trường THPT mang lại những ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện trên cả ba mặt hình thành kiến thức, phát triển kĩ năng, hình thành tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
- Về mặt kiến thức:
Chức năng của môn Lịch sử về mặt kiến thức là cung cấp những tri thức cơ bản về quá trình phát triển của xã hội loài người và lịch sử dân tộc. Vì vậy, việc nắm vững các sự kiện lịch sử cần có sự hỗ trợ từ những hiểu biết trong nhiều môn khoa học khác nhau. Như vậy, việc sử dụng nhiều nguồn tài liệu, ở các lĩnh vực khác nhau có tác dụng cung cấp cho học sinh những cơ sở để tạo biểu tượng lịch sử một cách chân thực và chính xác. Từ đó, học sinh có thể hình thành khái niệm, nêu qui luật và rút ra bài học lịch sử.
Ví dụ, khi dạy bài 19 “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X - XV”- Lịch sử 10, để học sinh lí giải được ý nghĩa của việc nghĩa quân Lam Sơn, khi đánh bại quân Minh nhưng đã cấp ngựa, cấp thuyền cho quân giặc về nước, giáo viên có thể nêu và phân tích một số câu thơ trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi:
“…Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo…”
và xâu chuỗi thêm một số quan điểm trị nước khác của giai cấp phong kiến Việt Nam để giúp học sinh thấy được tư tưởng nhân đạo là xuyên suốt, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, nhân dân lên trên hết.
KTLM còn giúp học sinh tránh được những lỗ hổng kiến thức khi học tách rời các môn học. Nhờ đó, các em hiểu được sâu sắc kiến thức lịch sử và gây được hứng thú học tập.
Ví dụ, khi dạy bài 14 “Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam” - Lịch sử 10, để giúp học sinh xác định rõ về phạm vi, ranh giới giữa ba quốc gia cổ đại hình thành trên lãnh thổ Việt Nam, giáo viên cần khai thác lược đồ Việt Nam và sử dụng những kiến thức môn Địa lí hỗ trợ giải thích. Ngoài ra, cũng trong bài này, giáo viên còn có thể vận dụng kiến thức Địa lí khi giảng và làm rõ về vị trí của thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội), hay sử dụng kiến thức môn Giáo dục công dân khi nói về nguồn gốc sự hình thành lòng yêu nước của nhân dân ta.
Như vậy, việc dạy học vận dụng KTLM sẽ tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh lựa chọn những nội dung kiến thức phù hợp cho việc giảng dạy và học tập, tránh tình trạng quá tải trong thời đại số, bùng nổ thông tin. Đồng thời, phương pháp này
cũng giúp khắc sâu kiến thức trọng tâm, tạo sự logic, hệ thống trong quá trình lĩnh hội tri thức.
- Về mặt kĩ năng:
Sử dụng KTLM trong dạy học sẽ giúp học sinh phát huy được tính tích cực và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo. Đồng thời, phương pháp này còn giúp các em vận dụng linh hoạt kiến thức của các môn học liên quan và khắc sâu kiến thức cơ bản. Từ đó, các em sẽ có hứng thú trong việc tìm tòi, phát hiện, khám phá các nguồn trí thức mới. Khi tích cực độc lập hoạt động nhạn thức để làm rõ kiến thức cũng là lúc các em phát triển được các khả năng nhận thức trong học tập lịch sử. Nếu đã hiểu được kiến thức thì các em sẽ hình thành được các kĩ năng bộ môn như: phân tích, so sánh, nhận định, đánh giá và liên hệ, vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
- Về tư tưởng, tình cảm, thái độ:
Bộ môn Lịch sử có ưu thế trong việc giáo dục con người phát triển toàn diện, đặc biệt là hình thành ở các em những tư tưởng, tình cảm đúng đắn như: sự khâm phục, yêu quí đối với người lao động; lòng tự hào, biết ơn những anh hùng dân tộc; yêu nước, yêu quê hương, tự hào dân tộc; gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống; tin tưởng và trung thành vào Đảng, vào lí tưởng xã hội chủ nghĩa… Từ đó, bản thân các em sẽ tự ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình, nhà trường và xã hội; tự giác rèn luyện, học tập, tu dưỡng. Để phát huy hơn nữa những ưu thế đó, người giáo viên cần sử dụng tốt KTLM trong dạy học, khai thác tri thức lịch sử để học sinh có thể hình thành và phát triển những tư tưởng, tình cảm chân thiện mĩ một cách tự nhiên và chủ động, tránh tình trạng giáo điều, hoặc nặng về tính tuyên truyền.
Ví dụ, khi dạy bài 22 “Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI - XVIII” - Lịch sử 10, giảng về sự hưng khởi của các đô thị như: Thăng Long, Phố Hiến, Hội An, Thanh Hà,… giáo viên có thể hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức địa lí tự nhiên để giúp các em xác định được vị trí của các đô thị và giải thích tác dụng của vị trí đó đối với sự phát triển của hoạt động trao đổi, buôn bán trong ngoài nước. Ở đây, học sinh cũng có thể vận dụng kiến thức của bộ môn Giáo dục công dân về qui luật cung - cầu để phân tích về các mặt hàng được trao đổi chủ yếu lúc bấy giờ. Hoặc, giáo viên cũng có thể sưu tầm thêm các câu ca dao, tục ngữ nói về sự phồn vinh của các đô thị nước ta trong
các thế kỉ XVI - XVIII như:“Thứ nhất Kinh Kì, thứ Nhì Phố Hiến”… Như vậy, học sinh có thể sử dụng đa chiều các kiến thức được học để khai thác và tìm hiểu rõ về các đô thị ở thế kỉ XVI - XVIII.
KTLM theo đó có tác dụng bồi dưỡng quan điểm biện chứng, xây dựng cho học sinh niềm tin khoa học. Các em sẽ thấy được sự hỗ trợ kiến thức giữa các bộ môn, cảm thấy thú vị khi sử dụng chính kiến thức mình có ở môn học khác lí giải kiến thức của môn Lịch sử (hay ngược lại). Qua đó, việc hình thành tư tưởng, tình cảm, thái độ đúng đắn sẽ trở nên phù hợp, logic và hiệu quả.
- Định hướng phát triển năng lực, phẩm chất:
Sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng phát triển năng lực cơ bản cho học sinh THPT như: năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, năng lực thực hành bộ môn… Từ đó cũng góp phần tích cực vào việc hình thành những phẩm chất yêu lao động, yêu quê hương đất nước, yêu hòa bình… cho các em.
Ví dụ, khi dạy bài 20 “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X - XV” - Lịch sử 10, giáo viên có thể sử dụng công nghệ thông tin, thiết lập bảo tàng ảo về các công trình kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu của dân tộc ta trong các thế kỉ X -
XV. Trên cơ sở bảo tàng ảo, giáo viên có thể giao bài tập về nhà theo nhóm cho học sinh tìm hiểu những thông tin giới thiệu về các công trình kiến trúc hoặc điêu khắc, đóng vai là những hướng dẫn viên bảo tàng để giới thiệu về các công trình văn hóa của dân tộc. Qua đây, học sinh sẽ được rèn luyện những năng lực về sử dụng công nghệ thông tin, làm việc độc lập, hợp tác, phân chia nhiệm vụ nhóm, khả năng thuyết trình trước tập thể… Đồng thời, học sinh cũng mở rộng thêm hiểu biết những kiến thức về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, biết khâm phục sự sáng tạo của các nghệ nhân và trách nhiệm gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
Như vậy, xét tổng thể các mục tiêu cần đạt của bộ môn về kiến thức, kĩ năng, tư tưởng tình cảm, định hướng phát triển năng lực và phẩm chất chúng ta thấy, việc sử dụng KTLM là một lựa chọn phù hợp, tích cực, phát huy được hiệu quả thực tiễn trong dạy và học Lịch sử, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng và kết quả giáo dục nói chung trong nhà trường THPT.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh
Việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông đã và đang mang lại những hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Để nhằm nắm bắt được thực trạng sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử ở THPT, đặc biệt là ở chương trình lớp 10 tại tỉnh Quảng Ninh, tôi đã tiến hành khảo sát bằng hình thức phát phiếu điều tra (phụ lục 1.1, 1.3), phỏng vấn trực tiếp đối với giáo viên và học sinh ở một số trường trong tỉnh (Bảng 1.1).
Bảng 1.1. Danh sách các trường phổ thông tham gia khảo sát
Tên trường | Địa chỉ | Số GV được hỏi ý kiến | Số HS được hỏi ý kiến | |
1 | TH, THCS & THPT Văn Lang | TP. Hạ Long | 2 | 50 |
2 | THPT Hòn Gai | TP. Hạ Long | 5 | 50 |
3 | THPT Minh Hà | TX. Quảng Yên | 4 | 50 |
4 | THPT Lương Thế Vinh | TP.Cẩm Phả | 5 | 50 |
5 | THPT Đông Triều | Huyện Đông Triều | 3 | 50 |
Tổng | 19 | 250 |
Có thể bạn quan tâm!
- Sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cổ trung đại Việt Nam ở trường THPT tỉnh Quảng Ninh - 2
- Cơ Sở Lí Luận Của Việc Sử Dụng Ktlm Trong Dạy Học Lịch Sử Ở Trường Thpt
- Đặc Điểm Nhận Thức Của Học Sinh Trung Học Phổ Thông Trong Học Tập Lịch Sử
- Vị Trí, Mục Tiêu Và Nội Dung Chính Phần Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam Trong Sách Giáo Khoa Lịch Sử Lớp 10 Ở Trường Thpt
- Xác Định Những Bài Học Sử Dụng Ktlm Trong Dạy Học Trên Lớp Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam
- Những Yêu Cầu Khi Sử Dụng Ktlm Trong Dạy Học Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam (Từ Nguồn Gốc Đến Giữa Thế Kỉ Xix) - Lịch Sử 10, Chương Trình Chuẩn
Xem toàn bộ 165 trang tài liệu này.
Trên cơ sở thu thập, xử lí số liệu từ phiếu điều tra thu về (phụ lục 1.2, 1.4), kết hợp với các câu trả lời phỏng vấn trực tiếp từ giáo viên và học sinh một số trường trải đều trong tỉnh, tôi đã có được những kết quả, thông tin về thực trạng sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử ở THPT, đặc biệt là ở chương trình lớp 10 tại tỉnh Quảng Ninh. Cụ thể như sau:
1.2.1. Về phía giáo viên
Trước hết, để điều tra xem GV có nắm được những vấn đề chỉ đạo, lí luận chung nhất về nguyên tắc sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử hay không, chúng tôi đưa ra hai câu hỏi:
- Một là: Theo Thầy (Cô), nguyên tắc sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử có nằm trong chủ trương đổi mới phương pháp dạy học hiện nay không?
- Hai là: Thầy (Cô) hiểu việc sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử có nghĩa là gì?
Kết quả thu về, 100% GV xác định sử dụng KTLM nằm trong yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay và xác định đúng bản chất sử dụng KTLM dạy học Lịch sử là sử dụng kiến thức của những ngành khoa học có liên quan đến nội dung của bài học Lịch sử.Từ đó có thể kết luận, GV đã có ý thức tìm hiểu và thực hiện chủ trương đổi mới nói chung và việc sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử nói riêng.
Về mức độ ưu tiên sử dụng các loại KTLM, câu hỏi số 3 trong phiếu điều tra chúng tôi đưa ra: “Theo thầy (cô), trong dạy học Lịch sử thường sử dụng KTLM của môn học nào?”. Có tới 84,2% GV được hỏi trả lời họ thường sử dụng kiến thức của các môn Khoa học xã hội như: Văn học, Địa lí, GDCD…47.3%GV cho biết họ sử dụng thêm cả kiến thức các ngành khác như: âm nhạc, hội họa, kiến trúc… Đặc biệt, có 21% GV còn sử dụng kiến thức của nhóm môn Khoa học tự nhiên để lí giải một số thành tựu khoa học - kĩ thuật mà con người đạt được trong các bài học về thành tựu văn hóa. Như vậy, việc sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử ở thực tiễn hoàn toàn phù hợp với cơ sở lí luận về sự gắn bó mật thiết giữa Lịch sử với các môn Khoa học xã hội và cũng liên quan ít nhiều tới các ngành khác thuộc nhóm Nghệ thuật và Khoa học tự nhiên.
Để thu thập thông tin về nhận thức tầm quan trọng và mức độ, cách thức sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử, tôi đưa ra nhóm 5 câu hỏi với kết quả cụ thể (Bảng 1.2
- Phụ lục).
Như vậy, tất cả GV được điều tra, dù mức độ đánh giá có thể là rất cần thiết hoặc cần thiết nhưng tựu chung đều cho rằng, cần sử dụng KTLM trong dạy học Lịch sử và phương pháp này thực tiễn đã mang lại hứng thú trong học tập cho học sinh. Chỉ có một GV cho rằng việc sử dụng KTLM để tạo hứng thú học tập cho HS là bình thường. Điều này có thể được giải thích bằng phương pháp, cách thức áp dụng cụ thể chưa thực sự phát huy hiệu quả để thu hút học sinh.
Từ nhận thức về tác dụng của của việc sử dụng KTLM, 100% GV đều có ý thức chủ động vận dụng phương pháp này trong giảng dạy cũng như hướng dẫn học sinh học Lịch sử ở mức độ thường xuyên hoặc thỉnh thoảng (theo đặc thù bài học). Tuy nhiên, nhìn theo tỉ lệ thu về từ phiếu điều tra có thể thấy, việc sử dụng thường xuyên chiếm tỉ lệ thấp hơn hẳn. Đại đa số các thầy cô mới chỉ áp dụng ở một số bài đặc thù (như về thành tựu văn hóa, khoa học - kĩ thuật), đôi khi còn mang tính hình thức, chưa