Các Căn Cứ Quyết Định Hình Phạt Đối Với Các Tội Xâm Phạm Tình Dục

cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để quyết định hình phạt cho phù hợp. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc Tòa án có thể quyết định hình phạt một cách tùy tiện mà bỏ qua các quy định chung của BLHS về hình phạt và quyết định hình phạt. Việc áp dụng nguyên tắc nhân đạo trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục vẫn phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của BLHS. Chẳng hạn, khi một người thực hiện hành vi phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 142 BLHS năm 2015 “hiếp dâm người dưới 10 tuổi” thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Tuy nhiên, nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ thì đủ điều kiện để áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật”. Tức là, Tòa án có thể áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để quyết định một hình phạt cho bị cáo dưới mức 20 năm tù nhưng phải nằm trong mức từ 12 năm đến 20 năm (khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật) chứ trong trường hợp này không thể vì mục đích nhân đạo mà áp dụng cho bị cáo hình phạt dưới mức 12 năm tù hoặc một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Trong một số trường hợp như người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, phạm tội chưa đạt hoặc người có hành vi phạm tội xâm phạm tình dục là người chưa đủ 18 tuổi... thì khi quyết định hình phạt Tòa án cũng cần phải xem xét áp dụng các điều luật mang tính nhân đạo phù hợp đối với họ. Điển hình như: quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 57); quy định về các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91)… Việc áp dụng tổng thể các quy định này khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục không chỉ bảo đảm nguyên tắc nhân đạo mà còn góp phần hiện thực hóa nguyên tắc pháp chế của ngành luật hình sự.

1.3.4. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt

Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt còn được gọi là nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản được thể hiện cả trong xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật là cơ sở pháp lý cho việc cá thể hóa hình phạt khi áp dụng.

Trong BLHS, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt được thể hiện thông qua việc phân chia tội phạm thành các nhóm tội khác nhau với hệ thống hình phạt đa dạng; chế tài của mỗi tội phạm cũng được phân hóa thành nhiều khung hình phạt khác nhau. Chẳng hạn, bên cạnh những quy định về nguyên tắc nhân đạo như đã phân tích tại mục 1.2.3, BLHS cũng có những quy định mang tính nguyên tắc về chính sách nghiêm trị đối với người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; hoặc người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (điểm c, d khoản 1 Điều 3 BLHS). Những quy định cụ thể này đã tạo điều kiện tối ưu cho việc cá thể hóa hình phạt.

Trong thực tiễn xét xử, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi Tòa án khi quyết định hình phạt phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tội phạm, các đặc điểm nhân thân người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng năng TNHS để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể sao cho đạt được các mục đích của hình phạt và tạo điều kiện phát huy hiệu quả của luật hình sự.

Đối với các tội xâm phạm tình dục, sự phân hóa trách nhiệm hình sự không chỉ thể hiện ở dấu hiệu định khung hình phạt của từng tội phạm dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; các đặc điểm nhân thân người phạm tội mà còn được cụ thể hóa thông qua các quy định về tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng. So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có những điểm tiến bộ vượt bậc hơn trong việc thể hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục. Cụ thể như việc cụ thể hóa ở mức tối đa các tình tiết định khung của từng tội phạm, ví dụ: Gây rối loạn tâm thần và hành

vi của nạn nhân… từ 31% đến 60% (Điều 142, Điều 144, Điều 146); Đối với người dưới 10 tuổi (Điều 142); Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh (Điều 145);… Ngoài ra, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn cụ thể hóa và chi tiết hơn những tình tiết định khung tăng nặng như phạm tội nhiều người thành phạm tội đối với 02 người trở lên, phạm tội nhiều lần thành phạm tội 02 lần trở lên [15, tr.178].

Như vậy, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt được thể hiện trong luật là cơ sở, điều kiện để Tòa án xem xét quyết định hình phạt đối với từng trường hợp người phạm tội cụ thể trên thực tế. Tuy nhiên, những quy định này không thể nào hàm chứa hết các tình tiết, hoàn cảnh đa dạng của từng tội phạm cụ thể cũng như những đặc điểm nhân thân từng người phạm tội cụ thể. Do vậy, khi quyết định hình phạt, bên cạnh việc tuân thủ các quy định chung, Tòa án còn cân nhắc đến các đặc điểm cụ thể khác của tội phạm và người phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ có trong vụ án để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể sao cho đạt được các mục đích của hình phạt. Nói cách khác, trách nhiệm hình sự càng được phân hóa rò ràng trong luật thì càng có cơ sở cho việc cá thể hóa hình phạt trong thực tiễn áp dụng.

1.4. Các căn cứ quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.

Hiện nay, trong khoa học luật hình sự tồn tại những cách hiểu khác nhau về căn cứ quyết định hình phạt. Ở phạm vi rộng, tác giả Đinh Văn Quế cho rằng “căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu cơ bản (là chỗ dựa) buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội” [21]. Tác giả Dương Tuyết Miên có cách giải thích khác hơn khi cho rằng “các căn cứ quyết định hình phạt là những cơ sở pháp lý được quy định trong Bộ luật hình sự mà Tòa án buộc phải tuân thủ khi quyết định hình phạt cho người phạm tội nhằm đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích của hình phạt” [18, tr.120]. Một quan điểm khác lại đưa ra định nghĩa về căn cứ quyết định hình phạt theo hướng “các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do

luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội” [43, tr.27].

Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 4

Dưới khía cạnh pháp lý, tiếp thu tinh thần của Điều 45 BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã tiếp tục ghi nhận và phát triển quy định về căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 50. Theo đó, khoản 1 Điều 50 BLHS năm 2015 quy định “khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục cũng phải dựa trên những căn cứ này.

Như vậy, các căn cứ quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm:

- Quy định của Bộ luật hình sự;

- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;

- Nhân thân người phạm tội;

- Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Mỗi một căn cứ nêu trên đều có vai trò quan trọng trong việc quyết định hình phạt của Tòa án. Trong thực tiễn quyết định hình phạt, việc nhận thức, đánh giá vai trò của mỗi căn cứ có thể không hoàn toàn đồng nhất giữa các thành viên của Hội đồng xét xử, tuy nhiên phần lớn các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đều thừa nhận rằng quy định của BLHS là căn cứ cơ bản, tiền đề bảo đảm cho việc quyết định hình phạt được đúng đắn.

1.4.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự

Quy định của Bộ luật hình sự là căn cứ đầu tiên có ý nghĩa quan trọng cho việc quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục nói riêng. Căn cứ này được xem là “tiền đề đảm bảo cho việc quyết định hình phạt được đúng” [18, tr.120].

Khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục, trước hết Tòa án phải căn cứ vào quy định của BLHS, bao gồm việc xem xét các quy định về

hình phạt và quyết định hình phạt tại Phần chung (từ Điều 30 đến Điều 45, từ Điều 50 đến Điều 59…) và đặc biệt là các quy định về các tội xâm phạm tình dục từ Điều 141 đến Điều 147 của BLHS năm 2015. Căn cứ vào các quy định này của BLHS, Tòa án xác định hành vi của người phạm tội là tội phạm nào trong nhóm các tội xâm phạm tình dục? Tội phạm đó đã vi phạm Điều, khoản, điểm nào của BLHS và hình phạt được quy định đối với tội phạm đó cụ thể là gì? Việc căn cứ vào quy định của BLHS khi quyết định hình phạt cũng chính là cơ sở để Tòa án xem xét, đánh giá các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm các tội xâm phạm tình dục. Bởi vì, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự hiện nay được quy định cụ thể tại Điều 51 và Điều 52 của BLHS năm 2015.

Việc ghi nhận “quy định của BLHS” là căn cứ đầu tiên trong số các căn cứ quyết định hình phạt thể hiện vai trò và tầm quan trọng của căn cứ này trong việc quyết định hình phạt. Sự ghi nhận mang tính bắt buộc này trong BLHS giúp cho Tòa án tránh được tình trạng tùy tiện khi quyết định hình phạt, giúp cho việc quyết định hình phạt được chính xác và thống nhất. Căn cứ này góp phần hiện thực hóa nguyên tắc pháp chế trong quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục nói riêng.

1.4.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

Trên thực tế, mỗi hành vi phạm tội có thể được thực hiện với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Do vậy, để lựa chọn chính xác hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội thì Tòa án bên cạnh việc căn cứ vào “quy định của BLHS” còn phải cân nhắc “tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”. Đây là căn cứ thứ hai trong các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 50 BLHS 2015.

Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong các tội xâm phạm tình dục là mức độ xâm hại đối với quyền bất khả xâm phạm về tình dục. Mức độ đó phụ thuộc vào các yếu tố như: thủ đoạn, công cụ, phương

tiện, hình thức thực hiện hành vi phạm tội; hậu quả thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra; tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tội; hoàn cảnh phạm tội [8, tr.320]. Chẳng hạn, hành vi phạm tội gây ra tỷ lệ tổn thương cơ thể cho nạn nhân càng cao thì mức hình phạt càng nặng. Vì thế, căn cứ vào “tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” sẽ giúp Tòa án có thể lựa chọn chính xác hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt được xác định để áp dụng cho người phạm tội.

Như đã phân tích tại mục 1.1.3, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục thực chất là việc lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể trong khung hình phạt được quy định. Hình phạt cụ thể được quyết định mặc dù chỉ trong phạm vi khung hình phạt cho phép nhưng phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm trong sự đối chiếu với các tội phạm khác. Đối với các tội xâm phạm tình dục, dựa vào quy định của BLHS Tòa án có thể xác định được hành vi của người nào đó đã phạm tội gì trong số các tội xâm phạm tình dục. Tội phạm đó được quy định tại điều, khoản tương ứng nào từ Điều 141 đến Điều 147 của BLHS năm 2015 và chế tài hình phạt được quy định ra sao? Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào quy định của BLHS mà không xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì Tòa án khó có thể quyết định hình phạt một cách chính xác.

Ví dụ, Nguyễn Văn A (20 tuổi) có hành vi dùng vũ lực để giao cấu trái với ý muốn của chị Nguyễn Thị B (19 tuổi). Trong lúc thực hiện hành vi, vì chị B kháng cự nên hành vi hiếp dâm của A đã đồng thời gây thương tích cho chị B. Trong trường hợp này, nếu căn cứ vào quy định của BLHS thì có thể dễ dàng xác định được hành vi của A đã phạm tội Hiếp dâm theo quy định tại Điều 141 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, nếu không xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi của A thông qua tỉ lệ tổn thương cơ thể của chị B thì Tòa án sẽ không thể xác định được hành vi phạm tội này thuộc điểm nào, khoản nào của Điều 141 BLHS năm 2015. Bởi lẽ, căn cứ điểm h khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015 thì hành vi hiếp dâm gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của nạn

nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Nhưng nếu tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên thì người thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân theo quy định tại điểm a khoản 3 của Điều 141. Do đó, quyết định hình phạt trong trường hợp này mà không cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi thì không thể xác định được khung hình phạt cần phải áp dụng.

Vì vậy, “tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” là một căn cứ rất quan trọng khi quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục nói riêng. Khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục, Tòa án cần đánh giá khách quan, chính xác căn cứ này để đưa ra hình phạt tương xứng với hành vi của người phạm tội trong từng trường hợp cụ thể.

1.4.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội

Nhân thân người phạm tội được hiểu là “tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ” [36, tr.97]. Những đặc điểm đó có thể là tuổi, nghề nghiệp, thái độ làm việc, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự… Đây là những đặc điểm thuộc về cá nhân người phạm tội, có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội và đến khả năng cải tạo, giáo dục của người đó.

Trong luật hình sự Việt Nam, nhân thân người phạm tội là một căn cứ thể hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào nhân thân từng người phạm tội để đảm bảo hình phạt được quyết định đạt được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội. Vấn đề này đã được BLHS cụ thể hóa thông qua những quy định trong đó nêu rò những đặc điểm nhân thân của người phạm tội được xem là điều kiện cho phép hoặc giới hạn việc áp dụng hình phạt. Ví dụ, Điều 39 BLHS năm 2015 quy định “Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”; khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015 quy định “Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu

thuộc trường hợp: a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; hoặc b) Người đủ 75 tuổi trở lên”. Bên cạnh đó, có những tình tiết về nhân thân cũng ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội [37, tr.91]. Do vậy, trong căn cứ “quy định của BLHS” và căn cứ “tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” đã hàm chứa một phần nội dung của căn cứ “nhân thân người phạm tội”. Tuy nhiên, nhân thân của người phạm tội vẫn được xem là căn cứ độc lập cần phải cân nhắc khi quyết định hình phạt. Ngoài ra, một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội còn được quy định là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 51, Điều 52 BLHS năm 2015).

Trong quá trình quyết định hình phạt, không phải mọi tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội đều được xem xét mà Tòa án chỉ xem xét những tình tiết có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội và khả năng đạt được mục đích của hình phạt. Đó có thể là những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như: phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp…; những tình tiết nhân thân phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội như: thái độ ăn năn hối cải, đầu thú, tự thú, lập công chuộc tội…; hoặc là các tình tiết nhân thân phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội như: người già, người bị bệnh hiểm nghèo, người có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh,…

Ví dụ, Nguyễn Văn B là giáo viên trường THPT huyện K. Một lần B cùng với một số người bạn đi ăn nhậu, trên đường về gặp em Vũ Thị C là học sinh lớp 11 của trường. Những người bạn của B trêu ghẹo C và cùng B kéo C vào chỗ vắng để thực hiện hành vi hiếp dâm. Lúc thực hiện hành vi giao cấu, B mới biết em C là học sinh của mình. Trong trường hợp này, mặc dù giữa B và C có mối quan hệ thầy giáo và học sinh, tuy nhiên hành vi phạm tội của B không phải do lợi dụng sự giáo dục để hiếp dâm người được giáo dục. Do đó, yếu tố nhân thân

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/06/2022