lợi ích vật chất nhất định. Quyền năng này của người sử dụng đất được pháp luật đất đai ghi nhận và bảo hộ. Dưới góc độ pháp lý, quyền sử dụng đất là quyền của các chủ thể được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ việc sử dụng đất đã được Nhà nước giao, cho thuê hoặc được chuyển giao từ những chủ thể khác thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho… Người sử dụng đất có các quyền: Quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; Hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước đầu tư; Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp; Được Nhà nước bảo vệ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình; Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất… theo quy định của pháp luật về đất đai(27).
Quyền sử dụng đất là quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Xét về khía cạnh kinh tế, quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng vì nó làm thỏa mãn các nhu cầu và mang lại lợi ích vật chất cho các chủ sử dụng trong quá trình sử dụng đất(28).
Mặc dù quyền sử dụng đất có thể được dịch chuyển thông qua các giao dịch chuyển nhượng trên thị trường, tuy nhiên giữa quyền sở hữu toàn dân về đất đai và quyền sử dụng đất có sự khác nhau, cụ thể:
- Quyền sở hữu toàn dân về đất đai là quyền ban đầu (có trước), trong khi đó quyền sử dụng đất đai là quyền phái sinh (có sau). Quyền này xuất hiện khi được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hay công nhận quyền sử dụng đất.
- Quyền sở hữu toàn dân về đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân, còn quyền sử dụng đất đai là một loại quyền không trọn vẹn, không đầy đủ. Quyền sở hữu toàn dân về đất đai là loại quyền độc lập, còn quyền sử dụng đất là loại quyền phụ thuộc.
Xuất phát từ tính chất riêng biệt và tổng thể của pháp luật đất đai, cũng như từ đặc thù về chủ thể là hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, do đó hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có nội hàm rất rộng, và nằm trong mối quan hệ với quyền sở hữu toàn dân về đất đai.
27 Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 65, 54
28 Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật đất đai, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 92
Về căn bản, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có thể phân chia thành các nhóm sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Khái Quát Về Những Kết Quả Của Các Công Trình Đã Được Nghiên Cứu Về Mặt Khoa Học Và Thực Tiễn
- Lý Luận Về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Hộ Gia Đình, Cá Nhân Sử Dụng Đất
- Khái Niệm Quyền Và Nghĩa Vụ Của Hộ Gia Đình, Cá Nhân Sử Dụng Đất
- Nguyên Tắc Của Pháp Luật Về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Hộ Gia Đình, Cá Nhân Sử Dụng Đất
- Nội Dung Các Quy Định Pháp Luật Về Chấm Dứt Quyền Và Nghĩa Vụ Của Hộ Gia Đình, Cá Nhân Do Nhà Nước Thu Hồi Đất
- Thực Trạng Quy Định Pháp Luật Và Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Đó Về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Hộ Gia Đình, Cá Nhân Sử Dụng Đất.
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
Một là, những văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hộ gia đình, cá nhân. Văn bản quan trọng nhất thuộc nhóm này là BLDS.
Hai là, các văn bản pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất, đăng ký quyền sử dụng đất và giao dịch quyền sử dụng đất. Thuộc nhóm này ngoài BLDS còn cần kể đến Luật Đất đai; Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế thu nhập cá nhân…
Ba là, các văn bản pháp luật có đề cập thuật ngữ hộ gia đình, cá nhân. Nhóm này có rất nhiều văn bản như Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Hợp tác xã; Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Thương mại; Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Phòng cháy, chữa cháy; Luật Ngân sách Nhà nước; Luật Thi đua khen thưởng; Luật Thống kê; Luật Thuỷ sản; Luật Xây dựng; Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; Luật Bảo vệ môi trường; Luật Nhà ở; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật Bình đẳng giới; Luật Cư trú; Luật Điện ảnh; Luật Quản lý thuế; Luật Hoá chất; Luật Phòng chống bạo lực gia đình; Luật Bảo hiểm y tế; Luật Đa dạng sinh học; Luật Trưng dụng, trưng mua tài sản; Luật Dân quân tự vệ; Luật Người cao tuổi; Luật Thuế tài nguyên; Luật Các tổ chức tín dụng; Luật Khoáng sản; Luật Người khuyết tật; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Luật Thuế bảo vệ môi trường; Luật Tố tụng hành chính; Bộ luật Lao động; Luật Hộ tịch; Luật Đầu tư; Luật Trẻ em, Luật Lâm nghiệp, Luật Trợ giúp pháp lý...
Quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành. Nói cách khác, quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép. Nói là khả năng có nghĩa là chủ thể có thể lựa chọn giữa việc xử sự theo cách thức mà nó được phép tiến hành hoặc không xử sự như vậy29. Tiếp cận dưới góc độ đất đai thì các quyền của người sử dụng đất được chia thành các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: Nhóm quyền thể hiện tư cách của người sử dụng đất đối với đất đai và hưởng sự bảo hộ của pháp luật, nhóm này gồm các quyền: Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; Hưởng các lợi ích do công trình do Nhà nước đầu tư; Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ, bảo hộ khi bị người
29 Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội - 2001. tr.448.
khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình; Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm pháp luật về đất đai. Nhóm quyền này có một số nội dung cơ bản sau đây:
- Về phương diện xác lập và công nhận tư cách của người sử dụng đất, trước tiên phải đề cập đến "Quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Ý nghĩa của quyền này thể hiện việc Nhà nước thừa nhận tính hợp pháp của việc sử dụng đất của người sử dụng đất và xác lập cơ sở pháp lý để người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong quá trình sử dụng đất. Để bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất thì Nhà nước phải xác lập tư cách cho người sử dụng đất thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho từng chủ sử dụng đất. Pháp luật quy định cho người sử dụng đất có quyền được hưởng các thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao. Đây là những lợi ích mà người sử dụng đất thu được khi khai thác các thuộc tính có ích của đất hoặc đã đầu tư vào đất đai trong quá trình sử dụng đất.
- Về phương diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, pháp luật hiện hành quy định cho người sử dụng đất được quyền tự bảo vệ thông qua việc khiếu nại, tố cáo, khởi kiện các hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình hoặc yêu cầu Nhà nước, xã hội can thiệp bảo vệ quyền lợi hợp pháp giúp mình.
Nhóm thứ hai: Nhóm quyền thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất, bao gồm: Quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất; Quyền tặng cho quyền sử dụng đất ; Quyền chuyển quyền sử dụng đất; Quyền cho thuê quyền sử dụng đất; Quyền cho thuê lại quyền sử dụng đất; Quyền thừa kế quyền sử dụng đất ; Quyền thế chấp quyền sử dụng đất; Quyền bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất ; Quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Đây là nhóm quyền thể hiện mối quan hệ giao dịch « ngang » giữa những người sử dụng đất với nhau. Hay nói cách khác, các quyền này góp phần vào việc hình thành thị trường quyền sử dụng đất thứ cấp ở nước ta.
Nhóm thứ ba: Người sử dụng đất được quyền lựa chọn hình thức giao đất, thuê đất30. Quyền này giúp cho người sử dụng đất dễ dàng tiếp cận trong việc sử dụng đất đai phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và năng lực tài chính của mình.
2.1.2.2. Khái niệm nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
Bên cạnh các quyền được pháp luật quy định, người sử dụng đất phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý trong quá trình sử dụng đất. "Nghĩa vụ chủ thể là cách xử sự
30 Điều 167 Luật đất đai năm 2013
mà Nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác"31. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nghĩa vụ của người sử dụng đất bao gồm hai nhóm chủ yếu sau đây:
Nhóm thứ nhất, nhóm nghĩa vụ tuân thủ trật tự quản lý đất đai, bao gồm: Sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không, bảo vệ các công trình công cộng trong lòng đất và tuân theo các quy định khác của pháp luật; Nghĩa vụ về bảo vệ môi trường đất; Đăng ký quyền sử dụng đất, làm thủ tục khi chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất ; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; Tuân theo các quy định về bảo vệ môi trường và các quy định pháp luật có liên quan; Tuân theo các quy định của pháp luật về việc tìm thấy vật trong lòng đất; Giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất hoặc khi hết thời hạn sử dụng đất.
Nhóm thứ hai, nhóm nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong quá trình sử dụng đất, bao gồm: Nộp thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, lệ phí địa chính; Nộp tiền sử dụng đất tiền thuê đất khi được giao đất, thuê đất theo quy định của pháp luật v.v.
2.1.3. Cơ sở hình thành, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
2.1.3.1. Giao đất
Kể từ khi Hiến pháp 1980 ra đời, đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Tuy nhiên, Nhà nước không trực tiếp chiếm hữu, sử dụng đất mà phân phối đất đai cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (gọi chung là người sử dụng đất) sử dụng ổn định lâu dài thông qua hình thức giao đất. Hình vi này được pháp luật quan niệm là: “Nhà nước giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất”32 Giao đất là cơ sở pháp lý hình thành quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân song không phải bất kỳ hành vi giao đất nào của cơ quan nhà nước cũng làm phát sinh quyền sử dụng đất mà chỉ những hành vi của các cơ quan nhà nước được pháp luật quy định, mới làm phát sinh quyền sử dụng đất. Theo quy định của pháp luật đất đai, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất bao gồm: Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
31 Trường Đại học Luật Hà Nội Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội - 2001. tr.449.
32 Khoản 7 Điều 3, Luật đất đai năm 2013.
phố trực thuộc Trung ương và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Điều 59 Luật đất đai năm 2013). Vì vậy, chỉ hành vi giao đất của các cơ quan nhà nước này mới làm phát sinh quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
2.1.3.2. Cho thuê đất
Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất không chỉ được xác lập thông qua hình thức Nhà nước giao đất mà còn phát sinh bằng việc Nhà nước cho thuê đất; theo đó: “Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất”33. Cho thuê đất gồm hai hình thức sau:
(i) Nhà nước cho thuê đất thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ cho thuê đất này phát sinh giữa một bên là Nhà nước (đại diện chủ sở hữu) với bên kia là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Trong trường hợp này thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất cũng chính là cơ quan có thẩm quyền cho thuê đất. Hình thức cho thuê đất này được xác lập dựa trên yếu tố công quyền và được thực hiện trong lĩnh vực quản lý đất đai.
(ii) Người sử dụng đất được cho thuê và thuê lại quyền sử dụng đất. Quan hệ cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất phát sinh giữa một bên là người được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất (bên cho thuê) với bên thuê, hoặc thuê lại quyền sử dụng đất. Đây là hình thức cho thuê đất được xác lập dựa trên sự thỏa thuận ý chí của người sử dụng đất thông qua hợp đồng giao dịch đất đai giữa những người sử dụng đất với nhau, đáp ứng yêu cầu của hoạt động sản xuất, kinh doanh.
2.1.3.3. Chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quyền của người sử dụng đất không chỉ được phát sinh thông qua giao đất, cho thuê đất mà còn được hình thành từ việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất: “Nhận chuyển quyền sử dụng đất là việc xác lập quyền sử dụng đất do được người khác chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật thông qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà hình thành pháp nhân mới”34. Theo pháp luật hiện hành, người sử dụng đất được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác trong thời hạn giao đất hoặc cho thuê đất. Mối quan hệ giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng được thiết lập qua hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
33 Khoản 8 Điều 3, Luật đất đai năm 2013.
34 Khoản 10 Điều 3 Luật đất đai năm 2013.
2.1.3.4. Thu hồi đất
Nếu như giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất là cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền của người sử dụng đất thì thu hồi đất lại là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quyền sử dụng đất. “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này”35. Thu hồi đất được quy định tại Mục 1 Chương 6 Luật đất đai năm 2013 (từ Điều 61 - Điều 73). Nghiên cứu các quy định về thu hồi đất này, có thể rút ra một số nội dung đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất, quyền sử dụng đất của người sử dụng đất bị chấm dứt bằng một quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay nói cách khác nó bị chấm dứt do ý chí của Nhà nước.Trong các trường hợp này, quyền sử dụng đất chỉ bị chấm dứt khi có một quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này có nghĩa là dù trên thực tế người sử dụng đất có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đất đai song quyền sử dụng đất của họ vẫn chưa bị chấm dứt chừng nào cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa ra quyết định thu hồi đất 36.
Thứ hai, quyền sử dụng đất của người sử dụng đất bị chấm dứt vì lợi ích chung của xã hội (đây là trường hợp chấm dứt quyền sử dụng đất vì lý do khách quan). Đó là trường hợp Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng quy định tại Điều 61 Luật đất đai năm 2013. Thu hồi đất trong các trường hợp này khác với việc thu hồi đất theo Điều 64 Luật đất đai năm 2013 ở các khía cạnh sau đây:
- Các trường hợp thu hồi đất theo Điều 64 Luật đất đai 2013 là do người sử dụng đất có hành vi vi phạm pháp luật đất đai; nên thu hồi đất là chế tài của Nhà nước áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật của người sử dụng đất. Trong các trường hợp này, người sử dụng đất không được bồi thường về đất.
- Quyền sử dụng đất của người sử dụng đất bị chấm dứt bởi việc thu hồi đất vì lợi ích chung của xã hội có bản chất pháp lý hoàn toàn khác. Trong trường hợp này,
35 Khoản 11 Điều 3 Luật đất đai năm 2013
36 Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất bao gồm:
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được ủy quyền (Điều 59 Luật đất đai năm 2013)
thu hồi đất không phải từ nguyên nhân vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất mà xuất phát từ nhu cầu, từ lợi ích chung của xã hội.
Thứ ba, quyền sử dụng đất bị chấm dứt do việc thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế; cụ thể: Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế như đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao và khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ.
2.1.3.5. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất - một bảo đảm pháp lý về quyền của người sử dụng đất
Một trong những đảm bảo cho người sử dụng đất từ Luật đất đai năm 2003 quy định là Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. Xét về bản chất pháp lý “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất”37. Khoa học pháp lý nước ta quan niệm, người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tức nghĩa là được Nhà nước công nhận việc sử dụng đất hợp pháp và được hưởng các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất do pháp luật quy định. Quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bao gồm một số nội dung chủ yếu sau đây:
- Người sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật đất đai năm 2013 thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cũng chính là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; cụ thể: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài; Uỷ ban nhân dân cấp huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được ủy quyền cho cơ quan quản lý đất đai cùng cấp. Chính phủ quy định điều kiện được ủy quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2.2. Lý luận pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
2.2.1. Khái niệm pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
Như phần trên đã đề cập, việc coi trọng và bảo hộ quyền về tài sản cá nhân trong lĩnh vực đất đai thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
37 Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013
(bao gồm hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất) đã đem lại những thành tựu quan trọng, nổi bật trong thời kỷ đổi mới; đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được ghi nhận trong Luật Đất đai năm 1993 và được kế thừa, bổ sung, trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998, năm 2001; Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tạo thành chế định quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất - một chế định cơ bản của pháp luật đất đai. Dựa trên quan niệm về pháp luật của lý luận nhà nước và pháp luật; tìm hiểu nội dung các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có thể hiểu khái niệm pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất như sau: Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước nhằm điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, bảo đảm đất đai sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả và bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Ngoài đặc điểm chung của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất; quyền, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có đặc điểm riêng chủ yếu sau:
Một là, căn cứ vào mục đích sử dụng cụ thể của từng loại đất và từng hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, pháp luật quy định một số quyền năng đặc thù của hộ gia đình, cá nhân. Ví dụ: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được Nhà nước giao đất nông nghiệp trong hạn mức theo hình thức không thu tiền sử dụng đất được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp với hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp trong phạm vi một xã, phường, thị trấn. Trong khi đó, các hộ gia đình, cá nhân sử dụng các loại đất khác không được hưởng quyền năng này. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được giao đất nông nghiệp trong hạn mức theo hình thức không thu tiền sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất.
Hai là, do các thành viên của hộ gia đình gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Mặt khác, việc sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình khác với tổ chức ở điểm cơ bản: Hộ gia đình gắn bó lâu dài với đất đai từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đất đai không chỉ là tài sản có giá trị vật chất mà còn là nơi nuôi dưỡng, giáo dục các giá trị văn hóa, tinh thần, truyền thống đạo đức giữa các thành viên trong gia đình. Do đó, pháp luật quy định cho hộ gia đình, cá nhân quyền