hàng hoàn chỉnh hồ sơ vay vốn; thẩm định và phân loại khoản vay một cách chính xác khách quan; định kỳ theo dõi, giám sát khoản vay…
Triển khai nhiều khóa học ngắn ngày cho các cán bộ tín dụng về các biện pháp cụ thể quản lý rủi ro tín dụng như: Thẩm định, giám sát… Một số cán bộ đã tiếp thu và áp dụng khá tốt thể hiện trong các tờ trình tín dụng. Một số tờ trình tín dụng đã có sự nghiệp chuyên nghiệp trong đánh giá cho vay và quản lý khoản vay.
Về măt cơ cấu tổ chức: Đã thực hiện phân tách phòng tổng hợp có chức năng quản lý các khoản nợ có vấn đề, dự báo xu hướng ngành nghề, triển khai các công văn chỉ đạo hoạt động tín dụng của chi nhánh nhằm quản lý tốt rủi ro tín dụng cá nhân. Tại chi nhánh, các chuyên viên khách hàng tài chính cá nhân được yêu cầu thực hiện tốt quy trình cho vay..
Về công tác thẩm định tín dụng được thực hiện đầy đủ, đánh giá đầy đủ những thông tin về khách hàng. Thông tin đánh giá về tư cách, khả năng, tài sản thế chấp; thông tin tín dụng đặc biệt là tình hình dư nợ tại các ngân hàng được phản ánh chính xác. Đã có những đánh giá về năng lực khách hàng về các mặt như: năng lực tài chính, trình độ học vấn, quan hệ gia đình và xã hội…
Cơ cấu khoản vay được quan tâm trong hầu hết các tờ trình tín dụng như số tiền cho vay, mục đích, thời hạn, nguồn trả nợ…
Công tác giám sát rủi ro được tiến hành khá tốt, cán bộ tín dụng đã thường xuyên kiểm tra tình hình khách hàng; giám sát các tài sản đảm bảo; giám sát dư nợ đảm bảo thu nợ đúng hạn.
Phân loại khoản vay và trích dự phòng rủi ro được thực hiện định kỳ thường xuyên theo quy định của Ngân hàng nhà nước
Xử lý nợ có vấn đề: Hầu hết các khoản nợ có vấn đề được tiến hành theo trình tự thích hợp. Các khoản nợ khó đòi được tổ chức thu triệt để.
Với tất cả những kết quả đạt được trên đây đã làm cho tỷ lệ nợ quá hạn của tín dụng cá nhân tại NHCTPY trong những năm gần đây luôn giữ mức chấp nhận được. Kết quả này đã tạo cho chi nhánh hình ảnh một chi nhánh có tình hình tài chính lành mạnh, đạt top các chi nhánh có lợi nhuận trên 100 tỷ đồng/năm.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Nợ Quá Hạn, Nợ Xấu, Tỷ Lệ Nợ Quá Hạn Tại Nhctpy
- Số Tiền Trích Lập Dự Phòng Rrtd Cá Nhân (2013-2015)
- Các Biện Pháp Đã Được Áp Dụng Để Phòng Ngừa Và Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng:
- Định Hướng Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam – Chi Nhánh Phúc Yên Giai Đoạn 2015-2020 Và Tầm Nhìn Đến 2030.
- Quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân, hộ gia đình tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần - 14
- Quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân, hộ gia đình tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần - 15
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với khách hàng cá nhân, hộ gia đình tại Ngân Hàng Vietinbank Chi nhánh Phúc Yên.
a. Hạn chế
Mặc dù đã có những kết quả đáng khích lệ nhưng quản lý rủi ro tín dụng của NHCTPY vẫn còn bộc lộ những hạn chế thể hiện qua các nội dung như:
- Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ; tỷ lệ nợ xấu cho vay KHCN, hộ gia đình là thấp tuy nhiên tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro/dư nợ vay và số tiền tiền trích lập rủi ro của chi nhánh ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của chi nhánh. Hơn nữa, việc trích lập xử lý rủi ro chỉ là việc khắc phục bị động, không phải là giải pháp chủ động và lâu dài trong công tác quản trị rủi ro cũng như chiến lược kinh doanh của chi nhánh.
- Vẫn còn tồn tại việc đánh giá sai trong khi xem xét các yếu tố pháp lý hoặc không phát hiện được các sai sót trong hồ sơ chứng từ cho vay để phát sinh rủi ro tín dụng cá nhân, cũng có thể do cán bộ tín dụng rủi ro tác nghiệp hoặc có những vấn đề về đạo đức nghề nghiệp, cho vay vì mưu lợi cá nhân. Trong khấu kiểm tra đánh giá người vay, tính khả thi của phương án xin vay… do cán bộ tín dụng có thái độ chủ quan, quá tin tưởng vào khách hàng quen của mình mà đã xem nhẹ khâu này đã dẫn đến cho vay vượt quá khả năng chi trả của khách hàng.
- Thẩm định tín dụng vẫn chưa thực sự đầy đủ như: Trong 6C thì “các điều kiện khác” lại chưa được quan tâm; Những rui ro tiềm ẩn vẫn chưa được đánh giá trong hầu hết các tờ trình tín dụng. Còn những tồn tại này là do cán bộ tín dụng chưa thấy hết vai trò của các điều kiện đó hoặc nhận thức của cán bộ tín dụng còn hạn chế.
- Giám sát rủi ro được thực hiện khá tốt đối với từng khoản vay, từng khách hàng nhưng giám sát rủi ro đối với danh mục khoản vay chưa được quan tâm thích đáng do vậy chưa có biện pháp quản lý rủi ro tập trung theo sản phẩm, theo khu vưc…. hạn chế này là do chi nhánh chưa có bộ phận chuyên trách thực hiện công tác này. Hiện nay quy mô hoạt động tín dụng của chi nhánh chưa quá lớn nên rủi ro này chưa bộc lộ. Với mức độ tăng trưởng hiện nay cần có sự quan tâm thích đáng tới vấn đề giám sát rủi ro tập trung này.
- Nhiều tờ trình tín dụng chưa thể hiện đầy đủ các đánh giá về khách hàng, về phương án kinh doanh, về biện pháp quản lý khách hàng và khoản vay, điều đó cho thấy sự non yếu trong quản lý rủi ro tín dụng của các cán bộ tín dụng. Sự non yếu này là khó tránh khỏi do hầu hết các cán bộ tín dụng của chi nhánh có tuổi đời và tuổi nghề rất trẻ do đó họ vẫn chưa thể hiểu và áp dụng một cách thuần thục. Với những đối tượng cán bộ như vậy cần có những hướng dẫn rất cụ thể họ mới có thể thực hiện tốt trong thời gian ngắn.
- Một vài những nhân tố khách quan tác động xấu tới công tác quản lý rủi ro của chi nhánh là do môi trường pháp lý như những quy định về bảo đảm tiền vay đang còn nhiều vướng mắc, chẳng hạn việc đảm bảo tài sản thế chấp bằng giá trị quyền sử dụng đất chỉ có khách hàng có “sổ đỏ” mới được mang thế chấp, trong khi đó các quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn quá nhiều phức tạp. Một nguyên nhân nữa, là do sự cạnh tranh diễn ra giữa các chi nhánh của ngân hàng khác hoạt động trên cùng địa bàn. Để cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng để tồn tại và sinh lời đôi khi chi nhánh phải chấp nhận những rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng cá nhân.
Tóm lại, mỗi một cá thể hay một tổ chức dù hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào thì đều có những mặt thành công và hạn chế. Trong những năm qua, tập thể lãnh đạo và cán bộ tại NHCTPY luôn nhìn thẳng vào thực tế tìm ra những điểm còn hạn chế và nỗ lực khắc phục những hạn chế đó.
b. Nguyên nhân của hạn chế
b.1. Nguyên nhân bên ngoài.
Nguyên nhân khách quan là do môi trường pháp lý như những quy định về bảo đảm tiền vay đang còn nhiều vướng mắc, chẳng hạn việc đảm bảo tài sản thế chấp bằng giá trị quyền sử dụng đất chỉ có khách hàng có “sổ đỏ” mới được mang thế chấp, trong khi đó các quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn quá nhiều phức tạp. Một nguyên nhân nữa, là do sự biến động của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, sự cạnh tranh diễn ra trên mọi mặt của nền kinh tế trong đó có ngành ngân hàng. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng trong nước mà đã vượt khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia và ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Để tồn tại, đôi khi ngân hàng phải chấp nhận những rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng cá nhân.
b.2. Nguyên nhân bên trong
Mặc dù đã có sự quan tâm, đầu tư, hệ thống quản trị rủi ro tín dụng cá nhân tại NHCTPY vẫn còn những thiếu sót như phân tích ở phần trên. Ban lãnh đạo NHCTPY đã tích cực tìm kiếm nguyên nhân và đưa ra các biện pháp khắc phục.
- Cán bộ tín dụng tuổi đời còn trẻ và ít kinh nghiệm. Tuổi bình quân cán bộ tín dụng năm 2015 của chi nhánh là 25 tuổi. 20% cán bộ mới được tuyển dụng trong năm và một số cán bộ được tiếp nhận điều chuyển từ bộ phận nghiệp vụ khác.
- Trong giai đoạn 2012-2015 cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế nước ta, tín dụng cá nhân cũng không ngừng lớn mạnh. Khối lượng công việc tăng mạnh, phát sinh thêm nhiều yêu cầu mới về quản lý hồ sơ sau cho vay (như đăng ký giao dịch bảo đảm, quy chế chuyển nợ quá hạn mới…) đồng thời cơ cấu mô hình chuyển đổi trên toàn hệ thống nên công tác quản lý cho vay chưa được quan tâm đúng mức, chưa thích ứng ngay với các quy trình mô hình mới. Dư nợ tín dụng cá nhân tăng trưởng, kéo theo sự tăng lên của các khoản nợ quá hạn.
Tư duy trong quá trình quyết định cho vay hiện nay tại các ngân hàng Việt Nam nói chung và tại NHCT nói riêng, không chỉ riêng nhân viên tín dụng mà ngay cả một số lãnh đạo ngân hàng vẫn thường quá coi trọng yếu tố tài sản bảo đảm và coi đó là yếu tố quan trọng nhất khi quyết định cho vay. Với tư duy cũ đó, cán bộ tín dụng chưa thật sự đánh giá đúng mức tư cách cá nhân vay vốn, không coi trọng tính khả thi của phương án sản xuất, kinh doanh từ đó dẫn đến việc thẩm định còn sơ sài có tính hình thức. Đây là điều hết sức đáng lo ngại, một mặt ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cá nhân của ngân hàng, mặt khác bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh tốt.
Từ phía ngân hàng, ngân hàng bao giờ cũng muốn thu hút được nhiều khách hàng đến vay vốn nhất. Nhưng nhiều khách hàng không đảm bảo đủ các điều kiện của ngân hàng (phần lớn là do điều kiện về tài sản thế chấp, vốn tự có), nhiều khách hàng không chịu chấp hành các điều kiện cam kết trong hợp đồng tín dụng. Một trong những khó khăn nữa về phía ngân hàng là sự thiếu thông tin tín dụng và nhân tố góp phần tạo ra khó khăn đó chính là về phía khách hàng đã không cung cấp đầy đủ những thông tin hoặc cung cấp những thông tin thiếu chính xác và hiện tượng “thông tin không cân xứng” giữa ngân hàng và khách hàng. Điều này liên quan chặt chẽ đến uy tín và phẩm chất của khách hàng. Đối với khách hàng truyền thống của
ngân hàng thì điều này ít khi xảy ra, tuy nhiên đối với những khách hàng mới có quan hệ giao dịch lần đầu tiền thì trường hợp cung cấp thông tin không chính xác có khi còn sai lệch để đạt được yêu cầu và mục tiêu xin vay là đã xảy ra. Chính điều này đã gây cản trở cho công tác tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng cá nhân của ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là điều không thể tránh khỏi và do đó để đảm bảo hiệu quả kinh doanh tối ưu thì năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng phải tốt. Với quan điểm nhất quán và xuyên suốt của NHCTPY như vậy về tầm quan trọng của công tác quản trị rủi ro, trong những năm qua công tác quản trị rủi ro tiếp tục đánh dấu những bước phát triển mới trong công tác này, đặc biệt là những phát triển trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, vốn luôn được xác định là rủi ro chính cần được kiểm soát chặt chẽ của NHCTPY. Với mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam, phát triển tín dụng cá nhân được ngân hàng coi là chiến lược phát triển trọng tâm. Vì vậy trong thời gian qua công tác quản trị rui ro tín dụng cá nhân đã và đang được quan tâm một cách thích đáng.
NHCTPY là một bộ phận của hệ thống luôn bám sát mục tiêu hoạt động chung của toàn hệ thống, cụ thể công tác quản lý rủi ro tín dụng cá nhân và thực hiện đúng theo các quan điểm chỉ đạo:Mở rộng hoat động tín dụng cá nhân phải gắn liền với an toàn trong cho vay, do đó ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho những khách hàng cá nhân có nguồn thu nhập tốt và ổn định, có uy tín để đảm bảo an toàn trong cho vay.Xây dựng nhữn sản phẩm cho vay có độ rủi ro thấp và biện pháp phòng ngừa rủi ro cho mỗi sản phẩm. Hoàn thiện các sản phẩm cho vay truyền thống sao cho nâng cao được tiện ích cho khách hàng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng trong đó có nội dung giảm thiểu rủi ro
Nhận thức đúng đắn quan điểm chấp nhận rủi ro có sự tính toán trước, không vì ngại rủi ro mà không cho vay. Luôn cẩn trọng trong mọi quá trình cho vay. Bổ sung, cập nhật định kỳ mô hình đánh giá hạn mức khách hàng nhằm nâng cao tính chính xác và hiệu quả. Bổ sung các tiêu chí xếp hạng nhằm phản ánh đầy đủ toàn bộ hoạt động cũng như rủi ro tiềm ẩn của đối tác
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH PHÚC YÊN
3.1. Các căn cứ của giải pháp
3.1.1. Dự báo xu hướng kinh tế và hoạt động ngân hàng thời gian tới
Tình hình kinh tế thế giới trong năm 2015 tuy chưa thực sự khởi sắc nhưng cũng đã bớt ảm đạm hơn. Nhịp độ tăng trưởng chung của nền kinh tế thế giới vẫn chưa được như mức dự báo. Theo số liệu mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB), tốc độ tăng trưởng toàn cầu năm 2015 là 2,4% (1), nhưng về cơ bản có thể thấy, những tác động của khủng hoảng tài chính và nợ công đã không còn trầm trọng, kinh tế toàn cầu bắt đầu thích nghi dần với những biến động về chính trị, an ninh. Nền kinh tế thế giới năm 2015 bộc lộ một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia, khu vực vẫn còn không đồng đều, chưa ổn định và thiếu bền vững. Năng suất của cả nền kinh tế phát triển và đang phát triển đều giảm thấp hơn so với trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong khi đó, mức tăng trưởng giữa các nước và nhóm nước không đồng đều. Kinh tế các nước phát triển tiếp tục phục hồi nhưng chậm hơn kỳ vọng.
Thứ hai, thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế biến động phức tạp và khó lường, tác động tiêu cực đến sự ổn định kinh tế thế giới. Năm 2015 là năm thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế biến động mạnh và phức tạp nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009. Những diễn biến xấu của nền kinh tế Trung Quốc đã tác động mạnh đến tâm lý thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế, khiến nhiều thị trường chao đảo trong quý III/2015. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc liên tiếp phá giá đồng Nhân dân tệ vào tháng 8-2015. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu năm 2015 đã tạm thời lắng xuống nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái phát.. Đây là một trong những yếu tố tác động lớn đến sự ổn định kinh tế thế giới.
Thứ ba, giá dầu và giá nguyên liệu giảm sâu tác động tiêu cực tới các nước xuất khẩu dầu và nguyên liệu lớn. Năm 2015, thế giới đã chứng kiến việc giá nguyên liệu và dầu thô tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm qua.. Việc dầu thô giảm giá kéo dài đã tác động hết sức tiêu cực tới những hãng sản xuất dầu và các lĩnh vực liên quan đến dầu. Hàng trăm ngàn lao động trong ngành khai thác dầu toàn cầu đã phải nghỉ việc, nhiều hoạt động sản xuất và khai thác cũng bị ngừng trệ. … Không chỉ có vậy, giá dầu thô xuống thấp còn tác động mạnh tới các sản phẩm phát sinh từ dầu và giá của những sản phẩm này cũng đang bị giảm mạnh. Tuy nhiên, nếu nhìn ở khía cạnh khác, giá dầu sụt giảm cũng làm tăng sức mua từ các hộ gia đình và làm chậm lại lạm phát ở một số quốc gia, đặc biệt là ở châu Âu và Mỹ.
Thứ tư, sự đối đầu ngày càng trầm trọng giữa chủ nghĩa khu vực và hợp tác đa phương, gây bất lợi đến tiến trình toàn cầu hóa và phát triển kinh tế thế giới.
Mặc dù vậy, song kinh tế - xã hội nước ta năm 2015 vẫn phát triển với những tín hiệu đáng mừng,cả nước hoàn thành tốt các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2011-2015.
Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định,lạm phát được kiểm soát tốt, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2015 đạt 6.68% là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 05 năm qua, vượt mức kế hoạch đề ra. Chỉ số gía tiêu dùng cả năm chỉ tăng 0.63% là thời kỳ làm phát ổn định dài nhất trong thập kỷ qua, sức cầu trong nước cải thiện với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tăng 9.5% so với năm 2014, khu vực doanh nghiệp trong nước có sự cải thiện rõ rệt cả về số vốn đăng ký mới, đăng ký tăng thêm và số lượng doanh nghiệp đăng ký mới, doanh nghiệp quay trở lại hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên nền kinh tế vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức như nợ công tăng, cân đối thu chi ngân sách gặp khó khăn, tình trạng nhập siêu trở lại trong năm 2015 sau 3 năm liên tục xuất siêu. Việc chính thức tham gia các vào các hiệp định tự do hóa thương mại song phương và đa phương đã mở rộng cánh cửa hội nhập kinh tế quốc tế, mang đến nhiều cơ hội cũng như yêu cầu mới đối với nền kinh tế Việt Nam.
Hoạt động tài chính – tiền tệ năm 2015 có nhiều cải tiến với việc điều hành chủ động, đồng bộ các chính sách tiền tệ của chính phủ, mặt bằng lãi suất thị trường tiếp tục giảm khoảng 0.2-0.5%/năm, hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh; tỷ giá và thị trường ngoại tệ được giữ ổn định, niềm tin vào đồng Việt Nam được củng cố, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế tiếp tục giảm; Tăng trưởng tín dụng toàn ngành đạt 18% cao hơn năm 2014 với cơ cấu tăng trưởng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực kinh tế Chính phủ ưu tiên khuyến khích hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội.
Kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh Phúc năm 2015 cũng chịu tác động bởi những khó khăn:Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản gặp khó khăn do thời tiết không thuận lợi, sản lượng sản phẩm xe máy tiếp tục giảm mạnh.. Tuy nhiên kinh tế xã hội toàn tỉnh vẫn hoàn thành thắng lợi kế hoạch năm 2015 đề ra:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 6,97% so với năm 2014, trong đó: nông, lâm, thuỷ sản tăng 2,6%; ngành công nghiệp- xây dựng tăng 6%; ngành dịch vụ tăng 9,6%. Thu ngân sách đạt 25.534 tỷ đồng, tăng 21,6% so với năm 2014, đạt 115% dự toán, (trong đó, thu nội địa 22.371 tỷ đồng, tăng 19,3% so với năm 2014, đạt 116,5% so dự toán). Chi ngân sách 21.160 tỷ đồng, tăng 23,2% so với năm 2014, đạt 171,3% dự toán đề ra. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục có những tiến bộ, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Năm 2015 hoạt động của các NHTM trong tỉnh có mức tăng trưởng mạnh mẽ,tổng nguồn huy động vốn đến 31/12/2015 tăng 27,4%; tổng dư nợ cho vay tăng 19,73%; nợ xấu ở mức1,24% trên tổng dư nợ.
Triển vọng kinh tế thế giới năm 2016
Kinh tế thế giới năm 2016 được dự đoán là có phục hồi nhưng không vững chắc, chủ yếu là do thương mại toàn cầu suy giảm; khả năng biến động thị trường tài chính do các nước tiếp tục phá giá đồng tiền và lãi suất ở các nền kinh tế chủ đạo tăng ở các mốc thời gian không dự đoán được; giá dầu thấp gây áp lực đến cân đối tài chính ở các nước sản xuất dầu; nguy cơ suy thoái hoặc giảm phát kéo dài ở các nền kinh tế châu Âu, Nhật Bản; các thị trường mới nổi đang gặp nhiều thách thức