Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 12

2.2 Nhóm giải pháp liên quan quyết định đầu tư

2.2.1 Thẩm định dự án trước khi đưa ra quyết định đầu tư

Quyết định đầu tư là một trong những quyết định tài chính quan trọng vì sai lầm không thể sửa chữa được cho nên trước khi quyết công ty nên xem thẩm định dự án nhiều góc độ, hiệu quả tài chính cũng như hiệu quả kinh tế- xã hội.

Đầu tư là một hoạt động rủi ro vì kết quả đầu tư thực tế không phải là một giá trị chắc chắn và được biết trước. Khi thẩm định dự án, chúng ta dựa vào những kết quả dự báo hay kết quả kỳ vọng và kết quả thực tế chỉ được biết chắc chắn khi dự án đã được thực hiện và hoàn tất. Kết quả thực tế có thể khác xa với kết quả kỳ vọng. Khi đầu tư vào một dự án đồng nghĩa việc từ bỏ một lượng giá trị của cải hiện có để đổi lấy cơ hội sở hữu một dòng thu nhập không chắc chắn trong tương lai. Thế nhưng doanh nghiệp thì không thể không đầu tư. Đó là lý do vì sao việc thẩm định dự án đầu tư lại có vai trò quan trọng đối với bất cứ doanh nghiệp nào.

Trong thẩm định một dự án đầu tư, rủi ro là yếu tố được tính đến nhiều nhất. Khi doanh nghiệp đầu tư vào 1 dự án mới tình trạng rủi ro của nó đã thay đổi, mức độ rủi ro của doanh nghiệp có thể tăng hay giảm đi tuỳ thuộc và sự tương quan giữa dự án mới với các dự án đang thực hiện. Vì vậy, khi lựa chọn các dự án đầu tư doanh nghiệp phải tính đến sự tương quan giữa dự án mới với các hoạt động hay dự án hiện đang được thực hiện. Độ rủi ro của danh mục đầu tư mới phụ thuộc 2 yếu tố : Rủi ro đặc thù của dự án mới và Hệ số tương quan của tài sản mới được đầu tư với các tài sản hiện có trong quá trình tạo ra dòng thu nhập kỳ vọng cho công ty. Rủi ro của danh mục đầu tư được đo lường bằng độ phân tán của tỉ suất sinh lời kỳ vọng của danh mục đầu tư. Nhà quản trị tài chính phải cân nhắc tất cả các vấn đề trên để giúp doanh nghiệp có những quyết định đầu tư hiệu quả với khả năng sinh lời cao và rủi ro là ít nhất.


2.2.2 Xác định lãi suất chiết khấu thích hợp khi đánh giá dự án

Thực tế hiện nay , khi thẩm định tài chính thì các dự án đầu tư các công ty thường sử dụng chiết khấu k bằng với lãi suất vay vốn dài hạn của ngân hàng. Như đã phân tích ở phần trên, cách làm này là không đúng.

Do vậy, để nâng cao chất lượng của quyết định đầu tư công ty nên xác định suất chiết khấu thích hợp để xác định hiện giá thuần của dự án. Nếu dự án có mức rủi ro trung bình tức là khi đầu tư vào dự án này không làm thay đổi tình trạng rủi ro hiện tại của doanh nghiệp thì suất chiết khấu nên lấy bằng đúng với mức phí tổn sử dụng vốn trung bình của công ty được xác định căn cứ vào phương án tài trợ vốn cho dự án.

2.2.3 Tính đến chi phí cơ hội khi lựa chọn dự án đầu tư

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Khi doanh nghiệp quyết định một phương án đầu tư có nghĩa là nó bỏ qua một cơ hội đầu tư khác. Vì thế không thể không tính đến chi phí cơ hội khi xem xét về mặt tài chính của một dự án đầu tư. Những tính toán này phải dựa trên tỷ suất sinh lời của dự án, so sánh nó với lãi suất vay vốn dài hạn của ngân hàng.

2.3 Nhóm giải pháp liên quan quyết định tài trợ

Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 12

2.3.1 Huy động và đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường nảy sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn các nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp huy động vốn từ bên trong và bên ngoài đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức

mới cho phép các doanh nghiệp huy động các nguồn vốn từ bên ngoài. Do vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động liên tục và có hiệu quả với chi phí huy động vốn ở mức thấp nhất.

Bản thân việc vay vốn không phải lúc nào cũng là thượng sách. Nếu lãi suất phải trả cao hơn tỷ suất lợi nhuận có thể thu được, thì đương nhiên các công ty sẽ không bao giờ vay vốn. Và trên thực tế, nhiều công ty cho rằng nếu không có được những dự án đầu tư mang lại lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay, thì thà cứ cố gắng tiết kiệm tiền còn hơn là đi vay mượn thêm. Nhưng đây không phải là lời giải cho bài toán vốn. Nếu chỉ cần tiết kiệm và giảm tối đa mọi chi phí là đủ, thì chắc sẽ không có ai thành lập công ty và mở rộng các hoạt động kinh doanh cả. Lời giải ở chỗ các công ty làm sao để không phải đi vay mà vẫn tìm ra những nguồn huy động vốn khác nhau.

Trên thị trường vốn, có khá nhiều phương thức khác nhau để tiếp cận các nguồn vốn đầu tư, tuy nhiên, điều khó khăn đối với đa số các công ty là họ không hội đủ các điều kiện cần thiết để vay vốn, hay không nhận được sự tin tưởng từ phía các nhà tài trợ. Vì thế, việc nâng cao năng lực kinh doanh, cũng như đẩy mạnh uy tín của công ty trong con mắt các nhà tài trợ là rất cần thiết để công ty có thể tiếp cận các nguồn vốn một cách dễ dàng.

Trước mỗi quyết định tài trợ vốn, các nhà tài trợ thường căn cứ vào độ tin cậy và uy tín của công ty. Nếu công ty muốn sớm nhận được quyết định tài trợ vốn, thì một bộ tài liệu chứng minh độ tin cậy của công ty sẽ là rất cần thiết. Văn bản này càng trung thực và rõ ràng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Các nhà tài trợ sẽ tiến hành xác minh, nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực, lập tức họ sẽ đặt dấu hỏi về độ tin cậy của công ty.

Bên cạnh đó, một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng độ tin cậy của công ty. Sau những vụ bê bối

tài chính lớn như Enron, Worldcom... giờ đây các công ty trên thế giới đã quan tâm hơn đến bộ máy kế toán. Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi nếu cứ tiếp tục xem thường bộ máy kế toán như trước đây, thì chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những "vết xe đổ". Và do vậy lòng tin của các nhà đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng.

Ngoài việc chủ động huy động vốn và trình bày các năng lực kinh doanh, doanh nghiệp còn phải thể hiện cam kết tài chính của nó đối với những hoạt động kinh doanh cụ thể. Nhà tài trợ vốn sẽ luôn nhìn vào giá trị thực của công ty và các hệ số chuẩn mực về tài chính. Nên chuẩn bị các bản báo cáo tài chính về hiệu quả kinh doanh, năng lực quản lý (chứng nhận tiêu chuẩn ISO, TQM...)..., bởi chúng là những biểu hiện rõ ràng nhất khả năng của công ty trong con mắt các nhà tài trợ. Báo cáo tài chính sẽ "tiết lộ" hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, các chủ nợ,... về tình hình tài chính của công ty. Vì vậy, tính trung thực trong báo cáo tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Trong các kế hoạch huy động vốn, vấn đề lo ngại nhất của các nhà tài trợ là những rủi ro tài chính do sự biến động của thị trường, như giá ngoại tệ lên xuống thất thường, đồng nội tệ mất giá, thị trường bất động sản thay đổi, tình trạng trượt giá phi mã,... Các nhà tài trợ vốn sẽ luôn xem xét và suy tính rất kỹ về các rủi ro xấu nhất có thể xảy ra.

Chính vì vậy, để giúp các nhà tài trợ sớm ra quyết định, công ty nên có các phương án giải thích rõ ràng về tính tối ưu và khả thi của khoản tiền huy động, đồng thời việc giải thích càng chi tiết, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho bấy nhiêu.

Sau cùng, doanh nghiệp chỉ nên cân nhắc tới một khoản huy động vốn, khi tin tưởng và tính toán thấy rằng lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh được đầu tư từ khoản vốn huy động đó sẽ cao hơn các chi phí huy động

87

vốn. Và tuyệt đối không nên huy động vốn để trang trải các khoản lỗ của công việc kinh doanh hiện tại, bởi việc này có thể kéo doanh nghiệp lún sâu vào "vũng lầy" với tình trạng khó khăn hơn về tài chính . Thay vào đó, có thể cắt giảm các loại chi phí, hợp lý hoá hoạt động kinh doanh sao cho tốt hơn và hiệu quả hơn. Doanh nghiệp chỉ nên tập trung vào các hoạt động kinh doanh nào chắc chắn mang lại lợi nhuận.

2.3.2 Tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tiết kiệm và hiệu quả

Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn. Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng vào việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của các dự án đầu tư từ đó góp phần lựa chọn dự án đầu tư tối ưu. Việc huy động vốn kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Mặt khác việc huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh có thể giảm bớt và tránh được những thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay vốn, từ đó giảm được các khoản tiền trả lãi vay. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng phạt vật chất một cách hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy người lao động gắn bó với doanh nghiệp từ đó nâng cao năng suất lao động,cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

2.4 Nhóm giải pháp liên quan quyết định tài chính ngắn hạn

Quyết định tài chính ngắn hạn bao gồm việc quản lý tiền mặt, quản lý khoản phải thu, quản lý hàng tồn kho và các quyết định tài trợ ngắn hạn, hay nói cách khác đó là các quyết định liên quan nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. Để thực hiện tốt những quyết định này đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ giữa bộ phận quản trị tài chính và các bộ phận khác trong doanh nghiệp. Nhưng quản trị tài chính cổ điển thường chú trọng vào quản trị vốn lưu động và tìm các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp. Quản lý tiền mặt và khoản phải thu được coi là công việc của bộ phận kế toán. Hàng tồn kho nằm trong các quyết định kinh doanh. Mà việc tìm các nguồn tài trợ khá lớn đòi hỏi công ty phải tiêu tốn nhiều công sức vì phải trả giá rất đắt khi mắc phải sai lầm. Do việc tìm kiếm nguồn tài trợ chỉ thực hiện ở những khoảng thời gian cách nhau xa nên chỉ chiếm phần nhỏ thời gian của nhà quản trị tài chính. Phần lớn thời gian và năng lực của họ được dành vào quản trị vốn luân chuyển hay vốn lưu động. Do đó có nhiều quan điểm cho rằng quản trị tài chính nên tập trung vào việc quản trị vốn luân chuyển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phải xác định vị trí của các nhà quản trị tài chính trong khung cảnh quản trị chung và vai trò của họ tham gia trong việc hoạch định và kiểm soát các loại chiến lược của công ty. Họ phải có những phân tích tài chính để quản lý một cách tốt nhất lượng tiền mặt ra – vào, các khoản phai thu – phải trả, hàng tồn kho để những chi phí là tối thiểu trong khi vẫn đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp.

Để làm được điều đó, bộ phận quản trị tài chính phải giám sát, kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày, tình hình tài chính và thực hiện các chỉ tiêu tài chính, lãnh đạo và các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá tổng hợp và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện được kịp thời những tồn tại hay khó khăn vướng mắc trong kinh doanh, từ đó có thể đưa ra các quyết định để điều chỉnh các hoạt động phù hợp với diễn biến thực tế kinh doanh.

2.5 Nhóm giải pháp liên quan quản trị rủi ro

2.5.1 Giữ tỷ lệ vốn nợ trong cơ cấu vốn ở mức thích hợp

Cơ cấu vốn là tổng hợp các nguồn tài trợ dài hạn của công ty. Bao gồm: nợ dài hạn, vốn chủ sở hữu, vốn cổ phần (đối với công ty cổ phần) và quan hệ tỉ lệ giữa các thành phần vốn đó trong tổng vốn dài hạn của công ty. Doanh nghiệp có thể tìm nguồn tài trợ dài hạn thông qua các thị trường vốn

như thị trường tín dụng thuê mua, thị trường tín dụng thế chấp đặc biệt công ty có thể huy động nguồn vốn dài hạn trên thị trường chứng khoán. Vốn nợ của công ty được hình thành từ các nguồn như vốn vay dài hạn của ngân hàng, vốn thuê của các công ty cho thuê tài chính và vốn vay trực tiếp từ nhà đầu tư qua việc phát hành chứng khoán nợ. Vốn cổ phần hay vốn chủ sở hữu gồm vốn phần ban đầu do phát hành cổ phiếu phổ thông và phần lợi nhuận lưu trữ để tái đầu tư.

Vốn vay là giải pháp cổ điển mà nhìn chung các doanh nghiệp đều nghĩ tới khi cần huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Nhưng bản thân việc vay vốn không phải bao giờ cũng là thượng sách. Nguồn vốn vay sẽ đi kèm với lãi suất cho vay, đối với doanh nghiệp đó là chi phí vốn. Nếu lãi suất phải trả cao hơn tỷ suất lợi nhuận có thể thu được, thì đương nhiên các công ty sẽ không bao giờ vay vốn. Và trên thực tế, nhiều công ty cho rằng nếu không có được những dự án đầu tư mang lại lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay, thì thà cứ cố gắng tiết kiệm tiền còn hơn là đi vay mượn thêm. Nhưng đây không phải là lời giải cho bài toán vốn. Nếu chỉ cần tiết kiệm và giảm tối đa mọi chi phí là đủ, thì chắc sẽ không có ai thành lập công ty và mở rộng các hoạt động kinh doanh cả. Cho nên vấn đề của các doanh nghiệp là phải xác định tỷ lệ vốn vay thích hợp trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp để lãi vay không trở thành một gánh nặng cho tài chính doanh nghiệp.

Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn xác lập được sự tương quan hợp lý giữa mức rủi ro của khoản đầu tư và mức lợi nhuận kiếm được và do đó có thể tối đa hoá giá trị công ty.

Có 5 yếu tố ảnh hưởng đến quyết định về cơ cấu vốn

+ Mức rủi ro kinh doanh của công ty: Rủi ro kinh doanh cao thì hệ số vốn tối ưu càng thấp

+ Thuế suất thu nhập công ty: thuế suất càng cao thì hệ số nợ tối ưu càng cao

+ Vị thế tài chính công ty: Nếu công ty dễ dàng huy động vốn trong những trường hợp khẩn cấp thì hệ số nợ tối ưu cao và ngược lại.

+ Thái độ của nhà quản lý đối với rủi ro : Nhà quản trị ghét rủi ro không muốn sử dụng vốn nợ nhiều cho nên hệ số nợ tối ưu có xu hướng thấp.

+ Tối ưu hoá cơ cấu vốn là duy trì hệ số nợ ở mức làm cho phí tổn sử dụng vốn của doanh nghiệp thấp nhất và do đó giá trị của nó cao nhất.

2.5.2 Trích lập các quỹ dự phòng sự biến động lãi suất trên thị trường

Rủi ro tài chính là sự biến động của thu nhập ròng do ảnh hưởng của chi phí trả lãi vay cố định khi tình hình kinh tế biến động . Để hạn chế sự biến động giá đầu vào hay đầu ra nhằm ổn định dòng thu nhập dự kiến công ty có thể sử dụng kỹ thuật “Hedge” trên thị trường tài chính. Nếu công ty muốn ổn định gía đầu vào hay chặn không cho giá vật tư nguyên liệu biến động tăng vượt quá mức có thể chấp nhận được công ty nên mua nguyên vật liệu thông qua hợp đồng tương lai. Công ty cũng nên trích các quỹ dự phòng sự biến động giá trị các loại tài sản nhằm giảm thiểu tổn thất khi có sự biến động bất lợi của thị trường.

Ngoài ra, công ty cần phải dự trữ hệ số nợ cho những trường hợp khẩn cấp khi cần có nguồn tài chính tức thời để giải quyết những tổn thất không mong muốn như khi hoả hoạn xảy ra hay tài sản bị phá huỷ do động đất, bão lụt.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 09/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí