2.2 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của quản trị tài chính
Các nhà nghiên cứu kinh tế đều có chung quan điểm là “ngày nay biến động rủi ro trở thành thuộc tính của nền kinh tế trong kỷ nguyên mới”. Như vậy, quản trị tài chính cho doanh nghiệp của ngày hôm nay, “không chỉ là vấn đề kỹ thuật tính toán lợi hại, lời lỗ, mà là tương lai, một tương lai không còn giống như những gì mà các nhà kinh doanh vẫn hình dung, một tương lai được tư duy lại trong cái sự nhìn mới về sự biến động, một sự biến động làm nên hiệu quả” (Rowan Gibson).
Có thể nói ngày nay quản trị tài chính là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, chỉ có những doanh nghiệp với phương thức quản lý chuẩn hóa, hiện đại mới có thể sử dụng tốt các phân tích và quản trị tài chính để phát triển. Những doanh nghiệp buông lỏng quản trị tài chính và thiếu chuyên viên giỏi thì càng phát triển càng dễ đi đến sụp đổ như nhiều doanh nghiệp Việt Nam vấp phải trong thời gian vừa qua. Tại các nước phát triển, các doanh nghiệp lớn không thể thiếu người giám đốc tài chính giỏi, điều này cũng đúng đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến trình hội nhập ngày càng tăng tốc. Thế nhưng dường như các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn chưa đánh giá đúng vai trò của quản trị tài chính.
Trong rất nhiều doanh nghiệp không tồn tại bộ phận quản trị tài chính, chứ chưa nói đến chức danh giám đốc tài chính. Tất cả công việc liên quan đến quản trị tài chính mặc nhiên được giao phó cho kế toán trưởng và thường là xin ý kiến chỉ đạo của giám đốc hay phó giám đốc trước khi quyết định. Các kiến thức về mặt tài chính chỉ có vai trò hỗ trợ và tham khảo khi các nhà quản lý đưa ra quyết định về hoạt động kinh doanh chứ không có chiến lược phát triển về mặt tài chính. Xuất phát từ quan điểm đó, khi hoạch định một dự
án đầu tư hay một kế hoạch kinh doanh, các doanh nghiệp không hề xem xét một cách đúng mức về mặt tài chính, cũng không tính đến những rủi ro tài chính có thể xảy ra. Những tính toán về mặt kinh tế có thể chỉ ra rằng kế hoạch hay dự án đó sinh lợi nhưng trong nhiều trường hợp nó không đảm bảo về mặt tài chính, hay đó chưa phải là phương án tối ưu nhất đối với lợi ích của doanh nghiệp. Họ rơi vào thế thụ động khi xảy ra những rủi ro về tỷ giá hay lãi suất ảnh hưởng đến dòng tiền vào – ra của dự án. Họ cũng không quan tâm đến chuyện tối thiểu hóa chi phí vốn để mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho doanh nghiệp.
Đây là vấn đề tồn tại trong rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam, ngay cả các doanh nghiệp lớn. Để giải quyết nó, không có cách nào khác là các doanh nghiệp phải nhìn nhận lại và đánh giá đúng vai trò của quản trị tài chính. Từ đó có những đầu tư cho hoạt động này để mang lại hiệu quả toàn diện hơn cho các dự án đầu tư và các kế hoạch kinh doanh.
2.3 Đào tạo nhân lực tài chính chưa đáp ứng được nhu cầu
Trong một thế giới kinh doanh mà thay đổi là một quy luật không có ngoại lệ, nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế của một doanh nghiệp là khả năng quản lý thay đổi và những biến động với một tốc độ chưa từng có. Tốc độ thay đổi nhanh cóng có nghĩa là đòi hỏi các nhà quản lý cần có kiến thức chi tiết về các hoạt động của họ. Nhà quản lý cần phải biết cách thức tạo ra sản phẩm, các vật liệu thô và các bộ phận có thể huy động từ đâu, làm thế nào để có chúng, các giải pháp/ sản phẩm thay thế, vốn từ đâu ra và các giá trị tương đối đang thay đổi của chúng tác động như thế nào đối với mục tiêu cuối cùng của họ. Vấn đề thay đổi thường xuyên gây ra khó khăn cho các nhà quản trị nhưng nó vẫn luôn tồn tại. Các nhà quản lý ngày nay phải dự đoán nó, hiểu nó, quản lý nó và điều khiển nó thành lợi thế của doanh nghiệp mình. Tất cả những điều này phải được thực hiện với khả năng nhận thức nhạy bén, với khả năng lựa chọn những thay đổi và liên tục điều chỉnh.
Thế nhưng đây lại là vấn đề đang tồn tại trong lĩnh vực quản trị tài chính ở các doanh nghiệp Việt Nam. Đối với các doanh nghiệp, để tìm được chuyên viên tài chính giỏi không phải dễ, khi mà các cán bộ kế toán có kinh nghiệm thì phần nhiều thiếu kiến thức quản trị tài chính hiện đại, còn các sinh viên mới tốt nghiệp thì hầu như rất xem nhẹ và thiếu phương pháp để hấp thu thông tin môi trường kinh tế, một yếu tố quyết định khả năng phân tích và quản trị tài chính.
Theo nhận xét của các chuyên gia, nhu cầu về nhân lực tài chính không còn là dự báo nữa, mà đã thật sự bức thiết, đơn đặt hàng nhiều nhất cho các công ty “săn đầu người” là đơn đặt hàng tìm những chuyên viên quản trị tài chính và marketing. Các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các công ty cổ phần đều đang cần giám đốc tài chính và chuyên viên tài chính với nhiều mức độ khác nhau mà lực lượng kế toán không thể đảm trách được.
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh Nghiệm Của Nestlé Và Novo Industri Trong Việc Ra Quyết Định Tài Trợ
- Kinh Nghiệm Của Kodak, Rolls-Royce Và Avon Trong Việc Quản Trị Rủi Ro Tài Chính
- Thực Trạng Quản Trị Tài Chính Của Doanh Nghiệp Việt Nam
- Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 12
- Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 13
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Nắm bắt được nhu cầu đó, các đơn vị đào tạo đã tập trung đào tạo chuyên ngành này. Nhưng cũng như kinh nghiệm về đào tạo kỹ sư công nghệ thông tin (IT) vừa qua cho thấy, có một khoảng cách khá lớn từ nhà trường tới yêu cầu của doanh nghiệp. Các chuyên viên tài chính cần có một trình độ cao về kiến thức và kỹ thuật phân tích tài chính hiện đại, kết hợp với hiểu biết về tình hình kinh tế-xã hội trong trạng thái vận động. Những yêu cầu này không chỉ các sinh viên mới tốt nghiệp mà ngay cả những chuyên viên nhiều năm công tác cũng không dễ đáp ứng. Theo đánh giá của các nhà tuyển dụng, tuy phần lớn các sinh viên có kiến thức cơ sở khá tốt nhưng rất yếu trong vận dụng thực tế; một số sinh viên chưa phân biệt được kế toán quản trị và phân tích tài chính, giữa kế toán tiền mặt và quản lý ngân quỹ, đặc biệt là rất yếu trong khâu lập kế hoạch tài chính và phân tích rủi ro kinh doanh.
Để có được nguồn nhân lực tài chính giỏi, doanh nghiệp cần phối hợp tốt 3 nguồn. Đó là tuyển dụng sinh viên mới tốt nghiệp, săn tìm chuyên viên tài chính giỏi và đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới cho chuyên viên của công
ty; trong đó việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới cho chuyên viên là công việc thường xuyên và chủ đạo. Phương thức này cho phép kết nối các kiến thức tổng hợp của các chuyên gia và kinh nghiệm thực tiễn của học viên, và đây là phương thức được các doanh nghiệp nước ngoài áp dụng mạnh mẽ.
II. Khả năng áp dụng
1. Dự báo sự phát triển của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
Nghiên cứu tình hình hiện tại của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như xu hướng phát triển của chúng, ta có thể dự báo và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Các doanh nghiệp lớn của Việt Nam mà phần lớn là các tập đoàn kinh tế dường như đang chuẩn bị những hành trang cho mình để mở rộng hoạt động và dần vươn ra thị trường thế giới.
Theo kết quả một cuộc khảo sát mới công bố của Công ty Grant Thornton, khoảng 30% doanh nghiệp Việt Nam có kế hoạch tăng trưởng bằng việc mua lại những doanh nghiệp khác. Khảo sát cũng cho thấy, chỉ có 3% số doanh nghiệp cho biết sẽ bán lại doanh nghiệp của mình trong vòng ba năm tới. Tuy nhiên, so với mức quân bình của thế giới, tỷ lệ doanh nghiệp Việt
Nam muốn mua lại doanh nghiệp khác còn thấp. Theo Grant Thornton, 44% doanh nghiệp toàn cầu có ý định mua lại công ty khác trong vòng ba năm tới vì họ cho rằng mua lại hoặc sáp nhập là công cụ kinh doanh chiến lược để tăng trưởng. Khảo sát còn cho thấy, 30% doanh nghiệp ở Việt Nam muốn niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán trong ba năm tới.
Hiện nay, việc thành lập các tập đoàn kinh tế và mô hình "Công ty mẹ - Công ty con" đang diễn ra khá sôi động ở nước ta. Tám tập đoàn kinh tế nhà nước do Chính phủ thí điểm thành lập và một loạt các doanh nghiệp tư nhân hình thành theo mô hình tập đoàn kinh tế nở rộ thời gian qua đang cho thấy xu thế liên kết phát triển để lớn mạnh, tăng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập. Bên cạnh việc hình thành những tập đoàn kinh tế Nhà nước thông qua việc sắp xếp và quyết định của Chính phủ trên cơ sở các tổng công ty thì
đã xuất hiện những mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân. Trên thực tế, Việt Nam đã có những nhóm DN mạnh, có mối liên kết và hoạt động dưới một sự điều hành chung, một thương hiệu chung... Đây có thể xem là những mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam như FPT, Kinh Đô, Hòa Phát, Đồng Tâm... Điểm chung của các tập đoàn này là có vốn góp, cổ phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, có DN liên kết... và đang có xu hướng mở rộng quy mô và ngành nghề thông qua phát triển nội sinh, mua bán sáp nhập hay liên kết.
Một vài số liệu thống kể trên đây cho thấy một phần nào đó xu hướng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Họ không còn là những doanh nghiệp nội địa làm ăn nhỏ lẻ. Họ đang mở rộng hoạt động của mình bằng nhiều hình thức khác nhau. Dự báo trong tương lai họ sẽ trở thành những công ty, những tập đoàn có doanh thu lớn, lợi nhuận cao, tiến hành hoạt động trên các thị trường khác nhau. Đó sẽ là những công ty đa quốc gia mang quốc tịch Việt Nam. Nhưng để tương lai đó trở thành sự thật, hiện nay các doanh nghiệp vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng áp dụng kinh nghiệm QTTC của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam
2.1 Nhóm giải pháp chung
2.1.1 Tổ chức bộ phận quản trị tài chính doanh nghiệp theo một cơ cấu thống nhất
Tại các công ty đa quốc gia trên thế giới, quản trị tài chính được tách rời đối với công tác kế toán thống kê. Quản trị tài chính trong những công ty này là tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về tài chính và đưa ra những quyết định về mặt tài chính ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp. Đó là phương thức cần đưa vào áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam. Bộ phận quản trị tài chính phải dựa vào các báo cáo kế toán, báo cáo doanh thu, chi phí, báo cáo nhân sự và tiền lương,... do các bộ phận kế toán tài chính, kế toán quản trị, thống kê cung cấp, kết hợp với những yếu tố khách quan để tiến hành phân loại, tổng, hợp, phân tích và đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Mục đích cuối cùng là phải kết hợp với bộ phận quản lý khác đưa ra được những quyết định đầu tư đúng đắn cũng như huy động được nguồn vốn cần thiết cho các hoạt động đầu tư đó. Có thể tóm tắt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ phận quản trị tài chính trong một doanh nghiệp như sau:
- Chức năng:
Tham mưu, giúp ban giám đốc quản lý, chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các mặt về công tác tài chính và hoạt động kế toán của công ty theo quy định của Nhà nước và quy chế của doanh nghiệp.
- Quyền hạn:
Thừa lệnh của Giám đốc quản lý hoạt động tài chính của cơ quan, đơn vị trong toàn công ty;
Quan hệ với các cơ quan, đơn vị trong công ty, và bên ngoài để thực hiện công tác tài chính;
Kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với các cơ quan, đơn vị của công ty về việc chấp hành và thực hiện các nguyên tắc tài chính.
- Mối quan hệ:
Chịu sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của ban Giám đốc;
Quan hệ hiệp đồng với các phòng ban trong công ty cùng thực hiện nhiệm vụ;
Quan hệ với các đơn vị trong công ty là mối quan hệ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ kế toán tài chính..
- Nhiệm vụ:
Tham gia, đánh giá, lựa chọn các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh. Xác định nhu cầu vốn và tổ chức huy động các nguồn vốn đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp;
Tổ chức sử dụng tốt vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu chi, quản lý tốt các khoản công nợ và bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp;
Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận , trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp. Kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp, thực hiện tốt việc phân tích tài chính. Thực hiện tốt việc kế hoạch hoá tài chính;
Xây dựng các quy chế quản lý tài chính: quản lý quỹ tiền mặt, quản lý tài sản…..hướng dẫn các bộ phận trong toàn công ty thực hiện. Tổ chức công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, hướng dẫn nghề nghiệp cho nhân viên trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đồng thời quản lý sử dụng tốt đội ngũ nhân viên kế toán.
2.1.2 Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tài chính-kế toán
Củng cố đội ngũ cán bộ tài chính- kế toán có nghiệp vụ giỏi và tinh thần trách nhiệm cao là một nhân tố quyết định đến chất lượng công tác quản lý tổ chức. Đội ngũ cán bộ tài chính kế toán có nghiệp vụ giỏi, tinh thần trách nhiệm cao được xem như khâu then chốt trong việc phát triển công tác quản lý tổ chức ở mỗi doanh nghiệp. Để thực hiện giải pháp này cần từng bước thực hiện những nội dung sau.
- Rà soát, đánh giá đúng năng lực, phẩm chất của từng cán bộ tài chính - kế toán một cách thường xuyên liên tục. Sắp xếp luân chuyển công việc đối với từng cán bộ tài chính kế toán để một mặt nâng cao nghiệp vụ người quản lý có điều kiện để nhìn nhận đúng mặt mạnh, yếu chuyên môn đội ngũ tài chính- kế toán.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tổ chức. Cử cán bộ tham gia lớp tập huấn chế độ mới các lớp chuyên môn, nghiệp vụ cũng như lớp quản lý kế toán cán bộ làm công tác tài chính- kế toán.
- Khuyến khích động viên, tạo điều kiện để cán bộ tài chính- kế toán học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, cũng như ứng dụng khoa học- công nghệ vào công việc kế toán.
Cán bộ tài chính- kế toán phải là những người trung thực, có phẩm chất chính trị tốt, trình độ chuyên môn giỏi. Do đó việc đào tạo bôi dưỡng cán bộ phải có tính chất toàn diện cả về lý luận, chuyên môn, phẩm chất đạo đức và năng lực thực tiễn.
2.1.3 Tiếp cận mục tiêu QTTC một cách phù hợp
Vì mục tiêu lợi nhuận nếu được xem xét trong sự tương quan với rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì doanh nghiệp không nên chỉ xem lợi nhuận là mục tiêu sống còn.
Trong nền kinh tế thị thường có tính cạnh tranh mỗi doanh nghiệp phải phấn đấu sao cho có thể luôn “ tồn tại và phát triển” trong mọi tình huống kinh tế. Trong đó tồn tại là điều kiện cần và phát triển là điều kiện đủ. Các nhà đầu tư trên thị trường khi tìm kiếm cơ hội đầu tư thường hướng đến những doanh nghiệp có triển vọng – nơi hứa hẹn sẽ tạo ra những dòng thu nhập ổn định và tăng trưởng không ngừng trong tương lai, đảm bảo lợi ích đầu tư tức là bảo đảm khả năng tạo ra hệ số hoàn vốn hay tỉ suất sinh lời mong đợi. Các nhà đầu tư luôn đánh giá cao những doanh nghiệp có tiềm năng phát triển và tình hình tài chính lành mạnh và do đó, khả năng sinh lời là nền tảng xác lập giá trị của nó trên thị trường. Công ty nào càng được các nhà đầu tư quan tâm chú ý đến và sẵn sàng đầu tư khi có cơ hội thì giá trị thị trường càng cao vì giá cổ phần đầu tư sẽ tăng. Như vậy đứng trên góc độ của quản trị tài chính thì doanh nghiệp nên hướng tới mục tiêu không ngừng nâng cao và tối đa hoá giá trị thị trường của nó. Nói cách khác, nhà quản trị tài chính phải không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đồng vốn đầu tư cũng như đảm bảo sự an toàn của vốn đầu tư để thu hút vốn của các nhà đầu tư trên thị trường tài chính…