Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 2


DANH MỤC VIẾT TẮT TIẾNG ANH


Chữ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

AMA

Advanced Measurement

Approach

Phương pháp tiếp cận đo lường nâng

cao

ASEAN

Association of South East

Asia Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASRF

Asymptotic Single Risk

Factor

Mô hình giả định một nhân tố rủi ro

CRE

Commercial Real Estate

Bất động sản thương mại

BIA

Basic Indicator Approach

Phương pháp chỉ số cơ bản

BCBS

Basel Committee on Banking

Supervision

Ủy bản Basel về giám sát hoạt động

ngân hàng

BIS

Bank for International Settlement

Ngân hàng thanh toán quốc tế

CAR

Capital Adequacy Ratio

Tỷ lệ vốn tối thiểu

CCF

Credit Conversion Factor

Hệ số quy đổi tín dụng

CRC

Credit Risk Capital

Vốn rủi ro tín dụng

EAD

Exposure at Default

Giá trị rủi ro khi người vay không trả được nợ

EL

Expected Loss

Tổn thất dự kiến

FSI

Financial Stability Institute

Viện ổn định tài chính

IRB

Internal Rating-based

Approach

Phương pháp đánh giá nội bộ

KPI

Key Performance Indexes

Chỉ số đánh giá cơ bản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 2


LCR

Liquidity Coverage Ratio

Tỷ lệ đảm bảo thanh khoản

MRC

Market Risk Capital

Vốn rủi ro thị trường

NSFR

Net Stable Funding Ratio

Tỷ lệ nguồn vốn ổn định thuần

ORC

Operational Risk Capital

Vốn rủi ro tác nghiệp

RAROC

Risk Adjusted Return on

Capital

Tỷ lệ sinh lời trên vốn đã điều chỉnh

theo rủi ro

RRE

Residential Real Estate

Bất động sản cư trú

RWA

Risk-weighted Asset

Tài sản có theo trọng số rủi ro

SA

Standardised Approach

Phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn

UL

Unexpected Loss

Tổn thất ngoài dự kiến

VAR

Value At Risk

Giá trị rủi ro

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Trọng số rủi ro theo loại tài sản… 31

Bảng 1.2: Giá trị LGD tối thiểu đối với tỷ trọng đảm bảo của các hoạt động chính… 35

Bảng 1.3: Mối tương quan giữa mức vốn cần có với mức thu nhập của từng lĩnh vực kinh doanh… 40

Bảng 1.4: Lộ trình thực hiện yêu cầu về vốn theo Hiệp ước Basel III 53

Bảng 1.5: Tình hình thực hiện Hiệp ước Basel II tính đến tháng 9/201… 59

Bảng 2.1: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của NHTM (tính đến 31/12/2011)…79 Bảng 2.2: Quy mô vốn điều lệ của các NHTM NN tính đến tháng 12/2011………81 Bảng 2.3: Quy mô vốn điều lệ của một số NHTMCP tính đến tháng 12/2011……83

Bảng 2.4: Quy mô vốn điều lệ của một số NHTM của các quốc gia trong khu vực năm 2010… 83

Biểu đồ 2.1: Diễn biến huy động vốn từ nền kinh tế giai đoạn 2001 – 2013e…….67 Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng huy động vốn năm 2010… 68

Biểu đồ 2.3: Diễn biến tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2001 – 2013e 69

Biểu đồ 2.4: Diễn biến tổng phương tiện thanh toán giai đoạn 2007 – 2010… 71

Biểu đồ 2.5: Mức tăng tổng phương tiện thanh toán năm 2011 so với cuối năm 2010… 71

Biểu đồ 2.6: Biểu đồ tăng trưởng lợi nhuận trước thuế của một số NHTM 2011… 72

Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm 200 – 2013e……73 Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2011… 74

Biểu đồ 2.9: Thống kê tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2003 – 2011… 85


DANH MỤC HÌNH VẼ


Sơ đồ 1.1: Chức năng trung gian tín dụng của NHTM… 10


Hình 1.1: Một số hình thức rủi ro tín dụng… 14


Sơ đồ 1.2: Cấu trúc cơ bản của phương pháp IRB… 37


Hình 1.2: Khung quản trị rủi ro tác nghiệp cơ bản… 42


Hình 2.1: Quy trình FTP… 101


Hình 3.1: Mô hình tổ chức quản trị rủi ro tại nhiều NHTM trên thế giới… 151


Hình 3.2: Quy trình quản trị rủi ro hiệu quả theo thông lệ quốc tế 153


Hình 3.3: Mô hình tổ chức Tổng cục Giám sát ngân hàng… 155


LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài


Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và trở thành xu thế tất yếu đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Điều này đặc biệt đúng với các nền kinh tế đang phát triển và chậm phát triển, nơi cần rất nhiều vốn cho hoạt động đầu tư, trong đó có nền kinh tế Việt Nam.

Với việc ký kết Hiệp ước thương mại song phương (Bilateral Trade Agreement – BTA) với Hoa Kỳ tháng 12 năm 2001 và Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization – WTO) tháng 11 năm 2006, ngành dịch vụ tài chính ngân hàng của Việt Nam chính thức chấp nhận sự hiện diện và cạnh tranh trực tiếp của các định chế tài chính nước ngoài trên thị trường nội địa. Các cam kết mở cửa của Việt Nam với tư cách là thành viên của khối APEC và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN với lộ trình cụ thể cho việc mở cửa từng ngành kinh tế vừa là cơ hội để ngành tài chính ngân hàng Việt Nam phát triển và mở rộng thị trường, nhưng đồng thời cũng là những thách thức rất rõ ràng, rất thực tế. Việc làm thế nào để hệ thống ngân hàng thương mại và các dịch vụ tài chính Việt Nam thực sự đóng góp vào quá trình phát triển của một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã trở thành vấn đề cấp thiết cần giải quyết hơn bao giờ hết.

Hơn hai thập kỷ qua, ngành tài chính ngân hàng Việt Nam đã có sự trưởng thành và phát triển cả về lượng và chất. Tuy nhiên, theo đánh giá của các tổ chức Ngân hàng thế giới (World Bank – WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund – IMF) và cả những tổ chức đánh giá tín nhiệm lớn, có uy tín trên thế giới về ngành ngân hàng Việt Nam như Fitch Ratings và Moody’s thì công tác quản trị nói chung và quản trị rủi ro nói riêng của hầu hết các NHTM đang hoạt động tại Việt Nam là từ yếu đến rất yếu. Cho đến thời điểm hiện nay, hầu hết các ngân hàng Việt Nam mới chỉ tập trung chú ý đến một loại rủi ro đó là rủi ro tín dụng. Trong khi đó, thực tiễn quản trị rủi ro hoạt động NHTM của các nước trên thế giới đã tiến một bước xa so với thời điểm quản trị rủi ro tín dụng với sự tập trung vào Giá trị danh mục (Porfolio Value) và sử dụng công cụ Giá trị rủi ro (Value at


risk – VAR), trong đó tính đến cả rủi ro tác nghiệp, rủi ro kinh doanh, rủi ro tổ chức,…

Bản chất của mọi hoạt động ngân hàng đều xoay quanh công tác quản trị rủi ro. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra đối với ngành ngân hàng Việt Nam (bao gồm cả về cơ chế quản lý nhà nước cũng như thực tiễn hoạt động kinh doanh) hiện tại cũng như trong thời gian tới là phải phát triển được những khuôn khổ pháp lý và quy trình quản trị rủi ro, giám sát an toàn, tiếp cận dần tới việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quốc tế. Vì chỉ có đáp ứng được các yêu cầu của các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, các dịch vụ do NHTM Việt Nam cung cấp mới được chấp nhận trong các giao dịch tài chính ngân hàng quốc tế. Ngoài ra, ngay cả trên thị trường trong nước, quản trị rủi ro theo các nguyên tắc và thông lệ quốc tế giúp các ngân hàng thương mại đảm bảo mức độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của mình.

Hiệp ước quốc tế về Đo lường vốn và các chuẩn mực về vốn (International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards) - thường gọi là Hiệp ước vốn Basel (Basel Capital Accord) hay Hiệp ước Basel - là thoả thuận về một cơ chế quản lý, điều hành và giám sát hoạt động của hệ thống NHTM nhằm mục đích quản trị rủi ro, ổn định thị trường tài chính được các ngân hàng trung ương của 10 nước phát triển là thành viên của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (Bank for International Setttlement - BIS) cùng xây dựng và thống nhất áp dụng. Hiệp ước Basel đưa ra một loạt các chuẩn mực tính toán tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR – Capital Adequacy Ratio), chuẩn mực quản trị rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động và cơ chế giám sát. Theo lộ trình mà Uỷ ban Basel đặt ra, bắt đầu từ năm 2006, Basel chính thức được áp dụng trong khuôn khổ các nước thành viên và trong khối Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development – OECD). Ngoài ra, có 1 năm để các quốc gia này hiện thực hoá các nội dung trong Hiệp ước Basel thành các quy định pháp lý tại quốc gia mình cũng như để các nước có quyền phản ánh những mặt chưa phù hợp. Do những lợi ích mà các chuẩn mực này mang lại, một loạt các nước không phải thành viên của BIS cũng như các nước đang phát triển đã bắt đầu nghiên cứu và áp dụng. Các tổ chức tài chính trên khắp thế giới, kể cả trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là những tổ chức tài chính có hoạt động kinh doanh ngân hàng quốc tế, đều coi việc áp dụng và


tuân thủ các chuẩn mực của Hiệp ước Basel là nhiệm vụ và điều kiện tiên quyết đối với công tác quản trị rủi ro của mình.

Tại Việt Nam, sau khi gia nhập WTO, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các NHTM tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Theo đó, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel được đặc biệt chú trọng, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thời gian qua. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN năm 2005, quyết định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi quyết định 493/QĐ-NHNN về phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro; Quyết định 457/QĐ-NHNN năm 2005 và Thông tư 13/2010/TT-NHNN năm 2010 về quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn tối thiểu; Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN và Quyết định 37/2006/QĐ-NHNN quy định kiểm tra kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng là bước tiến quan trọng trong việc từng bước áp dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel tại Việt Nam. Khảo sát thực tế cho thấy đối với các NHTM tại Việt Nam, cùng với quá trình phát triển nhanh chóng thời gian qua cả về quy mô hoạt động lẫn cơ cấu sở hữu, theo đó sự tham gia của các cổ đông là ngân hàng nước ngoài ngày càng mở rộng, những nội dung của Hiệp ước Basel đã có ảnh hưởng lớn trong việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất là năng lực quản trị rủi ro. Tuy nhiên, quá trình triển khai áp dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel không phải đơn giản, mà đòi hỏi phải có thời gian với những điều kiện nhất định và bước đi thích hợp. Với mục tiêu hệ thống hóa nội dung của Hiệp ước Basel và đề xuất những nhóm giải pháp thực tế giúp các NHTM hoàn thiện hơn quy trình quản trị rủi ro của mình, từng bước tiếp cận các chuẩn mực của Basel, nghiên cứu sinh đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel”.

2. Tình hình nghiên cứu


Tại Việt Nam, tính đến thời điểm hiện tại có nhiều công trình nghiên cứu khoa học xung quanh vấn đề quản trị NHTM nói chung và tăng cường năng lực


quản trị NHTM ở Việt Nam nói riêng. Các nghiên cứu này hoặc được trình bày thành một hoặc một vài chương mục trong những sách về quản trị NHTM như cuốn “Quản trị ngân hàng thương mại”, PGS., TS. Lê Văn Tề, NXB Thống kê, 1999; “Ngân hàng thương mại”, Commercial Banking, Edward W.Reed, Edward K.Gill, 4th Edition, US Prentice Hall - Bản dịch, NXB Thống kê, 2004; “Ngân hàng thương mại” – Commercial Banking Management - Peter S.Rose, Mc. Gaw-Hill 1999, Bản

dịch, NXB Tài chính, 2001; “Quản trị ngân hàng thương mại”, Học viện ngân hàng, NXB Thống kê, 2001 hoặc được đăng tải trên nhiều bài báo và bài nghiên cứu được đăng trên Tạp chí ngân hàng (NHNNVN), Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ (Hiệp hội ngân hàng Việt Nam).

Tuy nhiên những nghiên cứu về Hiệp ước Basel và ý nghĩa ứng dụng của Hiệp ước này trong quản trị NHTM còn rất ít. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành “Những giải pháp để hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam tiếp cận và áp dụng hệ thống chuẩn mực đánh giá ngân hàng an toàn theo thỏa ước Basel”, TS. Tô Thị Ánh Dương, mã số: KHN2004-11, 2007 là một công trình nghiên cứu có quy mô lớn và hoàn chỉnh nhất từ trước tới nay về nội dung Hiệp ước Basel và áp dụng tại Việt Nam. Song mục tiêu nghiên cứu của đề tài đặt nhiều trọng tâm vào công tác thanh tra giám sát và đánh giá an toàn như là một chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Ngoài ra, có một vài bài viết giới thiệu về sự ra đời của Hiệp ước vốn như “Basel sẽ làm khó dòng vốn vào Việt Nam” của tác giả Hồng Phúc đăng trên website www.vnn.vn, “Chưa có lộ trình áp dụng Basel cho ngân hàng” của tác giả Song Linh trên website www.vnexpress.net, “Những thách thức từ Basel đối với ngành ngân hàng” trên website www.vneconomy.com. Các nghiên cứu trên mới chỉ sơ khảo phần nào về nội dung của Hiệp ước Basel, do tính mới mẻ của Hiệp ước này.

Do vậy, có thể khẳng định đây là luận án tiến sỹ kinh tế đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về các nội dung của Hiệp ước Basel với ý nghĩa là những chỉ dẫn về giám sát an toàn và quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM Việt Nam và khả năng áp dụng Hiệp ước này vào thực tiễn quản trị rủi ro của NHTM Việt Nam.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023