Mức Độ Tác Động Của Các Loại Rủi Ro Đối Với Hoạt Động Kinh Doanh Của Nhtm


- Rủi ro động: là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi, đặc biệt là những thay đổi trong nền kinh tế. Đó là những thay đổi mà kết quả của nó có thể có lợi nhưng cũng có thể sẽ mang đến sự tổn thất. Ví dụ như sự thay đổi trong thị hiếu khách hàng có phù hợp với sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng đang cung cấp hay không, sự thay đổi về công nghệ kĩ thuật có phù hợp với khả năng tài chính của ngân hàng hay không,…

Căn cứ vào cách thức, có hai loại rủi ro:


- Rủi ro thuần túy: tồn tại khi có một nguy cơ tổn thất nhưng không có cơ hội sinh lợi được. Nói cách khác, rủi ro thuần túy là những rủi ro mà bản thân nó chỉ có khả năng gây ra những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm, như hỏa hoạn, mất cắp, tai nạn giao thông, tai nạn lao động…và nó làm phát sinh một khoản chi phí (để bù đắp thiệt hại) nên cần có biện pháp phòng tránh hoặc hạn chế.

- Rủi ro suy đoán (rủi ro mang tính đầu cơ): là rủi ro mà trong đó những cơ hội tạo ra thuận lợi gắn liền với những nguy cơ gây ra tổn thất, loại rủi ro này là động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh và có tính hấp dẫn cao.

1.1.2.2. Khái niệm rủi ro trong kinh doanh của NHTM


Dưới góc độ hoạt động kinh doanh của NHTM, rủi ro được định nghĩa là những sự thay đổi không lường trước được về giá trị tài sản (gồm tài sản có và tài sản nợ) và các nghĩa vụ khác (trích dẫn Nguyễn Văn Nam – Hoàng Xuân Quyến 2002).

Các phương châm quản trị rủi ro hiện đại được xây dựng trên cơ sở “Không có rủi ro thì không có lợi nhuận”, và “Rủi ro là cái để quản lý, chứ không phải để tránh”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

1.1.2.3. Phân loại rủi ro trong kinh doanh của NHTM


Tất cả các hoạt động của NHTM đều chứa đựng rủi ro hay những yếu tố không lường trước được có thể gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có nhiều cách phân loại rủi ro. Theo cách phân loại thông dụng nhất, rủi ro bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro tác nghiệp và rủi ro khác.

(a) Rủi ro tín dụng


Là rủi ro phát sinh khi khách hàng vay không có khả năng thanh toán các nghĩa vụ trả nợ đầy đủ và đúng hạn theo quy định của hợp đồng tín dụng hoặc các loại thỏa thuận khác phát sinh nghĩa vụ thanh toán của khách hàng.

Có nhiều tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng của NHTM như:


Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ


Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu


Tỷ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất


Nợ có vấn đề, có khả năng chuyển thành nợ xấu cao


Nợ không có tài sản đảm bảo.


Nhiều ngân hàng phân loại nợ theo khách hàng để phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng. Nợ của khách hàng nhóm A (loại 1) được coi là có rủi ro thấp nhất, còn khách hàng nhóm D, E (loại 4 - 5) được coi là có khả năng mất vốn cao nhất.


Hình 1 1 Một số hình thức rủi ro tín dụng Nguồn Kỷ yếu hội thảo khoa học 1


Hình 1.1: Một số hình thức rủi ro tín dụng


Nguồn: Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp ngành 2005 - Ngân hàng Nhà nước


(b) Rủi ro thị trường


Rủi ro thị trường là những rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu khi giá cả trên thị trường thay đổi như thay đổi lãi suất, thay đổi tỷ giá, biến động trên thị trường chứng khoán, thay đổi giá cả hàng hóa, thậm chí thay đổi giá xăng dầu hay giá nông sản… Rủi ro thị trường thể hiện ở các trường hợp:

Rủi ro chi phí nếu lãi suất thay đổi;


Rủi ro tiền tệ nếu danh mục đầu tư gồm nhiều loại tiền khác nhau;


Rủi ro thanh khoản nếu khó bán;


Rủi ro trong trường hợp lây lan rủi ro giữa hai loại trái phiếu…


(c) Rủi ro thanh khoản


Rủi ro thanh khoản chia làm hai loại: rủi ro thanh khoản của tài sản và rủi ro thanh khoản về vốn. Rủi ro thanh khoản của tài sản phát sinh do tính thanh khoản của tài sản (tài sản có, tài sản nợ) không thể thực hiện được trong điều kiện nhất định (ví dụ: tài sản cầm cố, thế chấp là bất động sản; trái phiếu kỳ hạn dài…). Rủi ro thanh khoản về vốn phát sinh khi doanh nghiệp mất khả năng thực hiện các nghĩa vụ thanh toán và phải nhượng bán lại các tài sản đầu tư với giá thấp hơn giá thị trường hoặc giá dự kiến (ví dụ hoạt động chiết khấu trái phiếu của NHTM cho NHTW khi thiếu vốn tiền mặt).

(d) Rủi ro tác nghiệp


Là rủi ro phát sinh do chính con người gây ra hoặc sự cố kỹ thuật, máy móc xảy ra hoặc do quy trình, quy chế, cơ chế không đầy đủ, có sơ hở gây ra tổn thất cho ngân hàng. Các vấn đề liên quan đến rủi ro tác nghiệp bao gồm:

- Chiến lược kinh doanh;


- Các chính sách, các quy trình tác nghiệp;


- Công tác tổ chức;


- Các quá trình kinh doanh;


- Các hoạt động nghiệp vụ, hoạt động hỗ trợ;


- Nguồn nhân lực;


- Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin;


- Các biện pháp kiểm soát;


- Công tác kiểm toán.


(e) Các loại rủi ro khác


Tùy vào mục đích quản lý mà ngân hàng có thể xác định các loại rủi ro khác trong hoạt động kinh doanh của mình như: rủi ro pháp lý, rủi ro danh tiếng, rủi ro đạo đức… Trong quản trị ngân hàng hiện đại, các NHTM lớn gần đây đã bắt đầu chú ý đến một loại rủi ro mới là rủi ro tập trung tín dụng (credit concentration risk) trong điều kiện hoạt động mua lại và sáp nhập (M&A) đang diễn ra mạnh mẽ.

1.1.2.4. Mức độ tác động của các loại rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của NHTM

Đối với từng mảng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì mức độ tác động của từng loại rủi ro là khác nhau. Do đó, để quản trị rủi ro có hiệu quả đối với từng mảng nghiệp vụ, các nhà nghiên cứu đã quy ước về rủi ro điển hình để đánh giá mức độ các loại rủi ro đối với từng mảng kinh doanh khác nhau, cụ thể: RR cao, RR trung bình, RR thấp, không có RR. Ví dụ: Đối với mảng khách hàng doanh nghiệp, nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng liên quan đến đối tượng khách hàng này là nghiệp vụ tín dụng. Do vậy, đối với mảng khách hàng này, rủi ro tín dụng là rủi ro có nguy cơ xảy ra cao nhất. Bên cạnh đó, vì nguồn tín dụng liên quan đến đối tượng khách hàng doanh nghiệp thường tương đối lớn, các cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định hồ sơ luôn phải thận trọng. Chính vì vậy, khả năng xảy ra rủi ro tác nghiệp tương đối thấp.

Ngược lại, đối với mảng kinh doanh ngoại tệ và quản lý ngân quỹ, rủi ro tín dụng được đánh giá là ở mức thấp và rủi ro tác nghiệp có nguy cơ xảy ra cao do tính đặc thù của nghiệp vụ này không liên quan đến hoạt động tín dụng mà chủ yếu là các thao tác, kỹ năng máy tính và sự nắm bắt nhanh nhạy với những biến động của thị trường.

1.1.3. Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM


1.1.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro


Quản trị rủi ro là một bộ phận trong công tác quản trị điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của NHTM. Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát và những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM liên quan đến việc xác định, đo lường, giám sát, kiểm soát, quản lý và xử lý rủi ro nhằm đảm bảo:

Các cá nhân liên quan đến rủi ro và có trách nhiệm quản trị rủi ro phải hiểu rõ về rủi ro;

Rủi ro của một ngân hàng nằm trong giới hạn xác định bởi Hội đồng quản trị;

Rủi ro trong việc quyết định phải tương ứng với mục tiêu và chiến lược kinh doanh do Hội đồng quản trị đề ra;

Quỹ dự phòng phải bù đắp được các loại rủi ro dự kiến sẽ xảy ra;

Rủi ro trong việc ra quyết định phải rõ ràng, minh bạch;

Có đủ vốn để bù đắp rủi ro.

1.1.3.2. Nội dung quản trị rủi ro


(i) Nhận dạng rủi ro


Để quản trị rủi ro trước hết phải nhận dạng rủi ro. Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhận dạng rủi ro bao gồm các công việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ hoạt động của ngân hàng, nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không chỉ những loại rủi ro đã và đang xảy ra, mà còn dự báo được những dạng rủi ro mới có thể xuất hiện đối với ngân hàng, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp.

Để nhận dạng rủi ro, nhà quản trị phải lập được bảng liệt kê tất cả các dạng rủi ro đã, đang và có thể xuất hiện đối với ngân hàng bằng phương pháp sau: lập bảng câu hỏi nghiên cứu về rủi ro và tiến hành điều tra, phân tích các báo cáo tài


chính, phương pháp lưu đồ, thanh tra hiện trường, phân tích các hợp đồng, làm việc với các cơ quan Nhà nước, các ban, ngành có liên quan.

(ii) Phân tích rủi ro


Phân tích rủi ro là quá trình xác định những nguyên nhân gây ra rủi ro. Đây là một công việc phức tạp, bởi mỗi rủi ro không chỉ do một nguyên nhân duy nhất gây ra mà thường do nhiều nguyên nhân gây ra. Phân tích rủi ro nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro.

(iii) Đo lường rủi ro và dự tính tổn thất


NHTM phải đánh giá được mức độ rủi ro cũng như các đặc điểm rủi ro mà ngân hàng mình đang có. Trước hết, NHTM phải xác định được những loại rủi ro mà ngân hàng đang phải đối mặt cũng như mức độ của mỗi loại rủi ro đó.

Để đánh giá được rủi ro của NHTM, một loạt các chỉ số thống kê và số học được xây dựng và sử dụng trong công tác quản trị rủi ro của ngân hàng. Cụ thể là:

Mức độ rủi ro (Exposure): là tổng giá trị tài sản có mà ngân hàng coi là có

rủi ro.


Xác suất khách hàng không trả được nợ (Probability of Default – PD): là tỷ

lệ xác suất khách hàng nắm giữ tài sản có của ngân hàng không trả được nợ đúng hạn và đầy đủ. Tỷ lệ này được xác định đối với mỗi tài sản có trong danh mục đầu tư. Hiện tại, để tính được chỉ số này, ngân hàng phải sử dụng tổng thể kết quả tính toán và thống kê tỷ lệ tổn thất tín dụng của ngành và theo từng đối tượng khách hàng và đặc điểm của khoản cho vay.

Tổn thất trong trường hợp khách hàng không trả được nợ (Loss Given Default – LGD): là mức độ tổn thất đối với ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Một cách đơn giản, LGD được tính bằng trị giá khoản vay (gồm gốc + lãi + chi phí) trừ đi trị giá tài sản đảm bảo khoản vay.

Tổn thất dự kiến (Expected Loss – EL): là mức tổn thất mà ngân hàng có thể tính toán và dự tính trước được tương ứng với mỗi khoản mục trong danh mục đầu tư. Trong một số trường hợp cụ thể, EL = LGD.


Tổn thất không dự kiến (Unexpected Loss – UL): là những tổn thất nằm ngoài dự kiến của ngân hàng khi tiến hành phê duyệt khoản vay. Ví dụ: những tổn thất liên quan đến rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá là những biến động của thị trường trong tương lai mà tại thời điểm bắt đầu khoản cho vay, ngân hàng không thể dự đoán trước.

Giá trị rủi ro (Value at risk – VAR): là một chỉ số lượng hoá thống kê giá trị thực tế của tài sản sau một khoảng thời gian với độ tin cậy xác định trước (ví dụ: 95%, 99%,…).

Các chỉ số khác.


(iv) Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro


Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục nằm trong hệ thống KSNB trong các quy trình kinh doanh và hoạt động nhằm giảm thiểu rủi ro. Ban điều hành NHTM phải tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro phù hợp.

NHTM thường sử dụng một số phương pháp phòng ngừa rủi ro như: (1) dự phòng tổn thất tín dụng – loan loss reserves (provision); (2) vốn an toàn tối thiểu (capital adequacy); (3) phòng ngừa rủi ro (risk hedging); (4) các phương pháp khác.

(v) Xử lý rủi ro


Dù đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa, nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra, khi đó cần phải theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài sản, nguồn nhân lực hoặc về giá trị pháp lí. Sau đó, cần thiết lập các biện pháp tài trợ phù hợp. Nhìn chung, các biện pháp này được chia làm hai nhóm: tự khắc phục và chuyển giao rủi ro.

1.1.3.3. Các nguyên tắc cơ bản trong quản trị rủi ro


Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong phân tích các nguyên tắc cơ bản trong quản trị rủi ro đối với ngân hàng thương mại. Theo thực tiễn quản trị rủi ro của các NHTM trên thế giới, công tác quản trị rủi ro trong hoạt động của một NHTM thường thực hiện theo một số nguyên tắc chủ yếu sau:


Nguyên tắc chấp nhận rủi ro;


Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép;


Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt;


Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập;


Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính;

Nguyên tắc hiệu quả kinh tế, hợp lý về thời gian;


Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng;


Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép.


1.1.3.4. Quy trình quản trị rủi ro


Tuỳ thuộc vào cơ cấu rủi ro của mình mà mỗi ngân hàng xây dựng một quy trình rủi ro phù hợp. Những ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, danh mục sản phẩm đơn giản,… có thể lựa chọn xây dựng cho mình một quy trình quản trị rủi ro ít tốn kém hơn các ngân hàng lớn hơn. Nhưng tựu chung, một quy trình quản trị rủi ro của một NHTM thường bao gồm những bước sau:

Bước 1: Xác định rủi ro và xây dựng hệ thống chính sách, quy chế, quy định


Trong bước này, NHTM cần thực hiện:


Xác định chính sách rủi ro của ngân hàng: mức độ rủi ro mong muốn, chính sách và chiến lược của ngân hàng về rủi ro;

Xây dựng chính sách tín dụng: quy định về thủ tục phê duyệt khoản vay và thẩm quyền phê duyệt…

Xây dựng chính sách định giá; Đưa ra quy định về cơ chế rà soát, báo cáo;

Các quy định về RAROC;

Chính sách kế toán và các quy định chung về rủi ro tác nghiệp.

Bước 2: Phân tích rủi ro và lượng hoá rủi ro

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023