Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Hải Dương - 9


SMEs và hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs. Các khách hàng SMEs được phân loại theo đúng hạng của mình sau đó được áp dụng những chính sách tín dụng với những điều kiện cụ thể: xác định giới hạn tín dụng phù hợp với SMEs, quyết định cấp tín dụng (thời hạn, mức lãi suất, tài sản bảo đảm), đánh giá khách hàng trong quá trình theo dõi sử dụng vốn vay, quản lý danh mục tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro. Qua đó thể hiện hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng chính là cơ sở để xác định chính sách tín dụng với những điều kiện cụ thể khi cho vay khách hàng SMEs, Vietinbank – CN Đông Hải Dương đã tuân thủ nội dung này, điểm trung bình 2.90/3.

Theo quy định của NHCT Việt Nam, khách hàng SMEs phải được chấm điểm tại thời điểm xét cấp tín dụng và phải thực hiện định kỳ xem xét lại 6 tháng một lần. Trường hợp nhân viên tín dụng tại Vietinbank – CN Đông Hải Dương không thực hiện chấm điểm theo định kỳ thì khách hàng SMEs lập tức bị điều chỉnh thành hạng D và tự động chuyển nợ sang nhóm 5. Vietinbank – CN Đông Hải Dương yêu cầu cán bộ tín dụng phải thực hiện chấm điểm ngay khi SMEs có những thay đổi bất thường vì hạng khách hàng giảm sẽ liên quan đến việc quản lý giới hạn tín dụng (giảm giới hạn tín dụng), tăng tài sản bảo đảm và có thể bị chuyển nhóm nợ. Kết quả khảo sát thể hiện nhân viên tại Vietinbank – CN Đông Hải Dương tuân thủ chặt chẽ quy định này với điểm trung bình 2.96/3.

Tuy có nhiều ưu điểm nhưng hệ thống xếp hạng nội bộ tại Vietinbank – CN Đông Hải Dương được kết quả khảo sát thể hiện là chưa đủ độ tin cậy, các kết quả chưa được đánh giá khách quan (không tuân thủ, điểm trung bình 1/3). Nguyên nhân là do mặc dù chấm điểm tín dụng được thực hiện bởi phần mềm, tuy nhiên các khâu nhập liệu vào hệ thống vẫn được thực hiện trực tiếp bởi cán bộ quản lý SMEs chưa có bộ phận độc lập. Ngoài ra, các dữ liệu phi tài chính cũng chiếm lượng lớn nên rất dễ bị thay đổi theo mong muốn chủ quan của cán bộ quản lý SMEs.

• Mô hình đo lường rủi ro

Khi khảo sát về mô hình đo lường rủi ro với 2 câu hỏi cho thấy kết quả là điểm số trung bình 2/3, ở mức tuân thủ một phần. Ngoài những công cụ quản trị rủi ro truyền thống, NHCT Việt Nam đã nghiên cứu và triển khai xây dựng công cụ quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs theo Basel 2. Thừa hưởng lộ


trình của NHCT Việt Nam, Vietinbank – CN Đông Hải Dương đang áp dụng phương pháp đo lường dựa vào mức xếp hạng tín dụng nội bộ (IRB cơ bản). Trong thời gian tới NHCT Việt Nam sẽ tiến hành xây dựng mô hình ước tính tổn thất tín dụng. NHCT Việt Nam hiện chưa xây dựng được trung tâm tra cứu thông tin riêng cho SMEs nhằm cung cấp các thông tin về ngành, các chỉ số trung bình ngành, dữ liệu tín dụng SMEs…. Thông tin chủ yếu Vietinbank – CN Đông Hải Dương thu thập là từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN với các thông tin chưa đầy đủ và thiếu sự cập nhật.

2.3.3. Kiểm soát rủi ro

* Chính sách tín dụng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Hiện NHCT đã xây dựng chính sách quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs xuyên suốt với hệ thống văn bản nội bộ khá đầy đủ quy định hầu hết các mảng có liên quan và được ban hành dưới các hình thức:

- Quy chế, quyết định, quy định do chủ tịch hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc ban hành.

Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Hải Dương - 9

- Định hướng hoạt động cho vay khách hàng SMEs trong từng thời kỳ (một năm thường có 2-3 văn bản định hướng hoạt động cho vay khách hàng SMEs)

- Công văn, thông báo do tổng giám đốc/phó tổng giám đốc ký

Tuy nhiên theo khảo sát thì chính sách tín dụng mới dừng ở mức tuân thủ một phần, điểm trung bình 1.91/3 do còn một số mảng quan trọng nhưng chính sách tín dụng chưa đề cập đến như: Quy định về việc xử lý nợ có vấn đề dành riêng cho phân khúc SMEs, quy định về quản lý và xử lý tài sản bảo đảm dành riêng cho phân khúc SMEs.

Toàn bộ cán bộ công nhân viên của NHCT đều phải nắm bắt được chính sách tín dụng do chính sách tín dụng được truyền đạt thông suốt toàn tổ chức, chính vì thế kết quả khảo sát thể hiện mức độ tuân thủ, điểm trung bình 2.77/3. Tất cả các nhân viên tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng đều được tham gia các khóa đào tạo, các lớp học về chính sách tín dụng tổ chức tại trường đào tạo phát triển nguồn nhân lực của NHCT Việt Nam hoặc qua các buổi tuyên truyền live-meeting toàn hệ thống. Kết thúc các khóa học, lớp học này các cán bộ đều phải trải qua các bài kiểm tra. Định kỳ hằng năm NHCT cũng tổ chức các đợt thi nghiệp vụ toàn hệ thống để


củng cố việc nhân viên tích cực nghiên cứu, nắm vững văn bản của NHCT Việt Nam nói chung và các chính sách tín dụng đối với cho vay khách hàng SMEs nói riêng. Ngoài ra, chính sách tín dụng còn được thể hiện trong cẩm nang tín dụng của NHCT Việt Nam.

Về việc xem xét và đánh giá định kỳ chính sách tín dụng, kết quả khảo sát thể hiện nội dung này được tuân thủ, điểm trung bình 2.87/3. Mặc dù chính sách tín dụng đối với SMEs mang tính dài hạn nhưng định kỳ NHCT Việt Nam cũng có những điều chỉnh để thích ứng với tình hình kinh doanh thực tiễn.

NHCT Việt Nam giao chỉ tiêu kế hoạch tín dụng - mục tiêu cụ thể của hoạt động tín dụng trong thời gian 1 năm. Chỉ tiêu tín dụng thường được giao dựa trên kết quả thực hiện năm liền kề. Chỉ tiêu tín dụng được cụ thể đến từng phân khúc khách hàng trong đó có khách hàng SMEs. Kế hoạch tín dụng đối với SMEs thường được xây dựng cùng kế hoạch huy động vốn nhằm đảm bảo cân đối giữa nguồn và sử dụng nguồn. Thực tế, chỉ tiêu kế hoạch tín dụng phụ thuộc nhiều vào tình hình hiện tại, nên các chỉ tiêu tín dụng không thể hoàn toàn thể hiện định hướng và chiến lược tín dụng SMEs. Các chỉ tiêu này có thể được điều chỉnh vào giữa năm để phù hợp với môi trường kinh doanh, đầu tư và tình hình thực tế.

Đối với việc ban hành quy trình phê duyệt cho vay mới đối với SMEs cũng như việc bổ sung, gia hạn hoặc tái tài trợ các khoản cho vay khách hàng SMEs hiện hành, đến thời điểm cuối năm 2018, NHCT chưa có quy trình dành riêng cho SMEs mà chỉ có một quy trình chung cho khách hàng tổ chức. Ở nội dung này mức độ thực hiện chỉ đạt mức tuân thủ một phần, điểm trung bình 1.95/3. Với hạn chế này, NHCT đã làm giảm đi tính chuyên nghiệp, đơn giản trong việc trình và giải trình hồ sơ của nhân viên tín dụng cũng như sự thuận lợi trong việc kiểm tra và giám sát SMEs dựa trên những điểm đặc thù nổi bật của SMEs. Trong quy trình phê duyệt tín dụng dành cho khách hàng tổ chức, NHCT xác định rõ ràng và hợp lý các cấp phê duyệt tín dụng đảm bảo các quyết định tín dụng thận trọng. Hồ sơ cho vay khách hàng SMEs được đưa qua các cấp tín dụng với cấp độ phê duyệt tín dụng tăng dần đúng theo yêu cầu của chính sách tín dụng, từ đó giúp tách bạch bộ phận thẩm định không phải là bộ phận quyết định cho vay. Tuy nhiên, tại Vietinbank – CN Đông Hải Dương vẫn còn hiện tượng chia nhỏ khoản vay thuộc thẩm quyền chi


nhánh để không phải trình phê duyệt tín dụng tại cấp cao hơn dẫn đến quy trình tín dụng SMEs chưa được tuân thủ.

Thực tế, vẫn còn sự mâu thuẫn chồng chéo giữa các bộ phận liên quan như mâu thuẫn giữa lợi ích và nhiệm vụ của nhân viên tín dụng. Mục tiêu tăng trường cho vay khách hàng SMEs luôn đặt ra cho các nhân viên tín dụng dẫn đến nhân viên thường hạ chuẩn cho vay khách hàng SMEs để đạt chỉ tiêu tín dụng nhằm mục đích được khen thưởng và đề bạt.

Vietinbank – CN Đông Hải Dương luôn hiểu rằng rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs rất đa dạng và có những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con người mà thẩm định không thể lường hết được. Nhằm chia sẻ rủi ro của khách hàng SMEs với ngân hàng và nâng cao ý thức trả nợ của SMEs, Vietinbank – CN Đông Hải Dương đã áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay (Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 2018). Về giá trị định giá và mức cấp tín dụng tối đa so với giá trị định giá: Tùy vào từng loại tài sản của khách hàng SMEs mà Vietinbank – CN Đông Hải Dương xác định giá trị định giá và dựa vào kết quả chấm điểm tín dụng để xác định mức cấp tín dụng tối đa với từng tài sản đó (Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 2018). Tuy nhiên, NHCT chưa có các văn bản đưa ra các bảng giá tham khảo (theo giá thị trường), các nhân viên phải tự mình tìm các nguồn tham khảo không chính thức khác, trừ trường hợp tài sản bắt buộc phải qua cơ quan định giá còn SMEs hầu như rất khó để thuyết phục trả phí để được bên thứ ba định giá tài sản. Ngoài ra, NHCT chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể về rủi ro của từng loại tài sản bảo đảm cũng như hướng xử lý đối với từng loại tài sản này trong trường hợp phải thanh lý tài sản bảo đảm để thu nợ. Theo quy định của NHCT Việt Nam việc theo dõi liên tục và đánh giá định kỳ tài sản là bắt buộc, tuy nhiên nhiều nhân viên tín dụng tại Vietinbank – CN Đông Hải Dương chỉ thực hiện đánh giá lần đầu khi cho vay khách hàng SMEs, những lần tiếp theo chỉ làm qua loa, chiếu lệ dựa trên kết quả định giá ban đầu trong khi kết quả định giá này chỉ có hiệu lực trong 6 tháng. Nhiều trường hợp khi hồ sơ tín dụng của SMEs được bàn giao cho cán bộ mới quản lý thì cán bộ mới chỉ dựa vào hồ sơ đảm bảo để tiếp tục làm mà hoàn toàn không biết vị trí tài sản cũng như giá trị thực tế cập nhật đến thời điểm hiện tại của tài sản bảo đảm. Chính vì những lí do này, nội dung văn bản


hướng dẫn bảo đảm tín dụng chỉ dừng ở mức tuân thủ một phần, điểm trung bình 2.10/3.

* Khung lãi suất

Vietinbank – CN Đông Hải Dương dựa trên cơ sở xếp hạng khách hàng để xác định lãi suất cho vay sẽ áp dụng. Hạng khách hàng tương ứng với các mức lãi suất khác nhau: Hạng AAA, AA, hạng A và hạng BBB trở xuống. Điều này thể hiện lãi suất cho vay khách hàng SMEs được quy định linh hoạt trên cơ sở phân loại khách hàng SMEs khi xem xét cho vay và kết quả khảo sát đạt mức thực hiện tuân thủ, điểm trung bình 2.91/3.

Bên cạnh đó, Vietinbank – CN Đông Hải Dương khi áp dụng lãi suất cho vay khách hàng SMEs đều dựa trên tổng hòa lợi ích SMEs. Điểm trung bình khi khảo sát nội dung này là 2.87/3, ở mức tuân thủ. Cụ thể, SMEs uy tín và có mối quan hệ truyền thống lâu năm với ngân hàng có thể được áp dụng lãi suất rất thấp có khi dưới lãi suất sàn cho vay của NHCT Việt Nam nhưng SMEs mang lại những nguồn thu lớn cho Vietinbank – CN Đông Hải Dương từ thanh toán, chuyển tiền, tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh…. Chính vì thế, lãi suất cho vay là yếu tố rất linh hoạt được Vietinbank – CN Đông Hải Dương sử dụng triệt để và có chiến lược để cạnh tranh và lôi kéo SMEs.

* Tổ chức bộ máy quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs

Bộ máy tổ chức quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs tại NHCT được tổ chức tuân thủ theo nguyên tắc tách biệt giữa bộ phận tạo rủi ro với bộ phận phê duyệt và giám sát rủi ro với điểm trung bình 2.9/3.

NHCT Việt Nam đã xây dựng chiến lược quản trị rủi ro, trong đó Hội đồng quản trị có trách nhiệm xem xét và thông qua các chiến lược và chính sách quản trị rủi ro của NHCT Việt Nam, trong khi Ban điều hành có trách nhiệm thực hiện và phát triển các chiến lược và chính sách đã được thông qua đó.

Chức năng quản trị rủi ro của NHCT Việt Nam do Khối quản lý rủi ro thực hiện. Khối quản lý rủi ro gồm các phòng ban: Phòng Quản lý rủi ro thị trường, Phòng Quản lý rủi ro tín dụng, Phòng Quản lý rủi ro hoạt động, Phòng Quản lý vốn


và kế hoạch tài chính và Phòng Pháp chế có trách nhiệm quản lý các loại rủi ro khác nhau.

Trước đây, Vietinbank – CN Đông Hải Dương được giao mức thẩm quyền phán quyết tín dụng SMEs rất cao, điều này tạo ra nhiều rủi ro trong việc cấp tín dụng cho SMEs. Khi chuyển đổi mô hình kinh doanh, theo xếp loại của Vietinbank

– CN Đông Hải Dương được NHCT Việt Nam xem xét định kỳ hàng năm, Vietinbank – CN Đông Hải Dương sẽ có một mức kiểm soát thẩm định cho vay khách hàng SMEs và kiểm soát giải ngân nhất định. Do đó, hầu hết các hồ sơ cấp tín dụng và giải ngân của SMEs Vietinbank – CN Đông Hải Dương thẩm định, đề xuất cấp tín dụng và giải ngân được chuyển lên Phòng đánh giá xếp hạng và phê duyệt GHTD và Phòng kiểm soát giải ngân thông qua hệ thống luân chuyển hồ sơ nội bộ để thực hiện đánh giá, kiểm soát và phê duyệt thông qua đề xuất của Vietinbank – CN Đông Hải Dương. Việc chuyển đổi mô hình doanh này đã giúp Vietinbank – CN Đông Hải Dương kiểm soát và hạn chế được rất nhiều rủi ro trong quá trình cho vay khách hàng SMEs.

Hiện nay, Vietinbank – CN Đông Hải Dương đang áp dụng theo mô hình quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs theo 3 lớp phòng vệ.

Lớp bảo vệ thứ nhất: Các đơn vị, cá nhân thuộc khối kinh doanh chịu trách nhiệm đề xuất cấp tín dụng đáp ứng điều kiện tiêu chí cấp tín dụng đối với SMEs và chịu trách nhiệm quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs tại đơn vị của mình đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật, của NHCT, cân bằng lợi nhuận và rủi ro phù hợp với khẩu vị rủi ro, các định hướng tín dụng và các quy định, quy trình quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs của NHCT.

Lớp bảo vệ thứ hai: Bộ phận quản lý rủi ro tín dụng và kiểm soát tuân thủ chịu trách nhiệm giám sát độc lập lớp bảo vệ thứ nhất và quản lý rủi ro tín dụng. Chức năng cơ bản của bộ phận quản lý rủi ro tín dụng bao gồm xây dựng chính sách tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs và quản lý rủi ro danh mục tín dụng SMEs; tái thẩm định đề xuất cấp tín dụng từ các đơn vị kinh doanh trình lên, xây dựng các mô hình đo lường rủi ro tín dụng là công cụ trợ giúp các đơn vị kinh doanh và lựa chọn khách hàng.


Lớp bảo vệ thứ ba: Bộ phận kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm đánh giá độc lập về tính phù hợp và hiệu quả của quy trình cấp tín dụng SMEs, quy trình quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs, bao gồm cả tính tuân thủ đối với các quy định, quy trình này. Kiểm toán nội bộ giám sát độc lập lớp bảo vệ thứ nhất và thứ hai. (Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 2014)

Khi triển khai mô hình mới, sự tách bạch các bộ phận tạo nên những khối chức năng độc lập nhưng lại chưa hoạt động thật sự nhịp nhàng, đôi khi còn cản trở nhau trong tác nghiệp. Trong mô hình này bộ phận quản lý rủi ro tín dụng là đầu mối và có trách nhiệm kiểm soát toàn bộ các rủi ro về mặt tín dụng cũng như các rủi ro khác. Trong quá trình cấp tín dụng bộ phận này sẽ tái thẩm định đề xuất cấp tín dụng từ chi nhánh gửi lên điều này dẫn đến nhiều trường hợp mâu thuẫn giữa bộ phận kinh doanh đề xuất tín dụng với bộ phận quyết định tín dụng. Nguyên nhân là do trách nhiệm của các bộ phận liên quan đến quá trình cho vay khách hàng SMEs còn chưa thật rõ ràng dẫn đến những e ngại trong việc quyết định cấp tín dụng và làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra, trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, phòng quản lý rủi ro tín dụng chịu áp lực từ chi nhánh và thẩm định dựa trên thông tin phòng khách hàng chi nhánh cung cấp, hệ quả là kết quả thẩm định sẽ không đạt được tính khách quan.

* Kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs

Tất cả các điều kiện cho vay khách hàng SMEs đều phải được giám sát trước, trong và sau cho vay bởi chính nhân viên tín dụng; được kiểm soát chéo bởi bộ phận kiểm soát khu vực để xác định đúng chất lượng của khoản vay từ đó có mức trích lập dự phòng cụ thể với từng trường hợp. Đó là về mặt quy định còn trên thực tế qua khảo sát thì nội dung này chưa được tuân thủ, điểm trung bình 1.18/3. Các khoản cho vay khách hàng SMEs mới chỉ là giám sát trên bề mặt giấy tờ, chứ chưa đi sâu vào thực tế. Việc giải ngân tiền mặt đối với SMEs vẫn còn phổ biến do đặc thù cho vay khách hàng SMEs trên địa bàn tỉnh Hải Dương chủ yếu là cho vay phục vụ kinh doanh dịch vụ dẫn đến việc giám sát việc sử dụng vốn vay cũng như giám sát dòng tiền của SMEs gặp khó khăn.

Nhân viên tín dụng là người chịu trách nhiệm cao nhất về khoản vay đối với SMEs của mình. Nhân viên tín dụng có trách nhiệm thực hiện việc kiểm tra giám


sát các khoản cho vay khách hàng SMEs nhằm đảm bảo khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết, hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Ngoài giám sát khoản vay, cán bộ tín dụng còn phải theo dõi tài sản bảo đảm của khách hàng vay và của bên thứ ba để đảm bảo giá trị tài sản không có biến động lớn ảnh hưởng đến tính an toàn của khoản vay. Kết quả kiểm tra phải được lập thành biên bản, trường hợp khoản cho vay khách hàng SMEs có dấu hiệu rủi ro ảnh hưởng đến khả năng thu nợ, lãnh đạo phòng có trách nhiệm báo cáo lên ban lãnh đạo Vietinbank – CN Đông Hải Dương để có biện pháp xử lý kịp thời. Cán bộ tín dụng khi thực hiện việc kiểm tra giám sát cần kết hợp các phương thức kiểm tra khác nhau để kết quả kiểm tra đạt chất lượng cao nhất: Kiểm tra trực tiếp tại các địa điểm liên quan đến SMEs, kiểm tra gián tiếp thông qua các hệ thống phần mềm của NHCT (TPSS, Mis…), kiểm tra gián tiếp thông qua thu thập thông tin từ SMEs và các nguồn thông tin khác. Tại Vietinbank

– CN Đông Hải Dương, tình trạng kiểm tra, giám sát mà không đi thực tế mà chỉ làm biên bản đối phó cho đủ hồ sơ hoặc chỉ làm khi món vay bị chọn mẫu kiểm tra là khá phổ biến. Nguyên nhân của điều này xuất phát từ tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng hoặc từ việc quá tải số lượng SMEs một cán bộ tín dụng phải quản lý. Điều này thể hiện rõ khi tổng hợp câu trả lời khảo sát ở mức điểm trung bình 1.99/3, tuân thủ một phần.

Để góp phần kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng SMEs, NHCT đã tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ chặt chẽ, đảm bảo tính an toàn cho các hoạt động của Vietinbank – CN Đông Hải Dương. Cụ thể, cứ 4 chi nhánh sẽ thuộc sự giám của một phòng kiểm soát khu vực. Định kỳ hàng năm bộ phận kiểm toán sẽ tổ chức kiểm toán toàn diện hoạt động tín dụng, hoạt động huy động vốn, hoạt động ngân quỹ, hoạt động kế toán nội bộ…. Ngoài ra, các cuộc kiểm tra theo các chuyên đề như chấm điểm xếp hạng tín dụng SMEs, kiểm tra theo lĩnh vực cho vay được tiến hành đột xuất nhằm đánh giá tính tuân thủ quy trình của Vietinbank – CN Đông Hải Dương cũng như đánh giá danh mục tín dụng SMEs của chi nhánh. Do đó, điểm trung bình ở nội dung này rất cao 2.91/3, đạt mức tuân thủ. Với câu hỏi khảo sát về mức độ độc lập và đánh giá khách quan của bộ phận kiểm toán, kết quả là điểm trung bình 2.94/3, mức độ tuân thủ. Nhân viên bộ phận kiểm toán nội bộ nhận

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 02/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí