Basel II không chỉ giúp cho Vietinbank Vĩnh Long mà bản thân các ngân hàng có một môi trường cạnh tranh công bằng, nâng cao hoạt động để từ đó làm tiền đề cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh cùng các ngân hàng nước ngoài.
Bên cạnh việc nhận diện sự cần thiết của Basel II trong hoạt động quản trị rủi ro, các ý kiến đều cho rằng, bản thân các quy định trong Basel II hết sức phức tạp đòi hỏi nhân sự có chuyên môn cao, nghiên cứu sâu về lĩnh vực này để nắm bắt và triển khai một cách hiệu quả. Chính vì những khó khăn đó nên việc xây dựng chiến lược quản trị rủi ro là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, tại Vietinbank Vĩnh Long đã nhanh chóng thực hiện việc đánh giá khoảng Gap – khe hở giữa thực trạng quản trị rủi ro của Vietinbank Vĩnh Long với các chuẩn mực hiệp ước Basel II quy định.
Anh/Chị Ban điều hành, giám đốc dự án triển khai Basel II tại Vietinbank Vĩnh Long nhận định về những khó khăn, thách thức trong quá trình triển khai Basel II là: Yêu cầu cao về vốn tự có và các chỉ số thanh khoản, từ đó làm chi phí vốn tăng cao, dẫn tới ảnh hưởng đến phương thức kinh doanh của ngân hàng trong lựa chọn khách hàng cho vay. Tất cả các điều này làm cho cấu trúc vốn ngân hàng thay đổi và ảnh hưởng trực tiếp đến kỳ vọng lợi nhuận. Ngoài ra các thách thức lớn trong triển khai Basel II là nguồn chi phí rất lớn cùng với sự đầy đủ về cơ sở dữ liệu. Trưởng Bộ phận QLRR của Vietinbank Vĩnh Long nhận định “ Tính đầy đủ và chính xác của dữ liệu là một khó khăn rất lớn khi triển khai dự án, Vietinbank Vĩnh Long phải thu thập hơn 40,000 dữ liệu của khách hàng có giao dịch tín dụng, bảo lãnh, L/C tại hơn 117 điểm giao dịch trên toàn hệ thống trong vòng 06 tháng nhưng vẫn đảm bảo hoạt động ngân hàng”.
Về tỷ lệ an toàn vốn thuộc trụ cột 1: các ý kiến cho rằng việc đảm bảo tính tuân thủ vốn cũng là một thách thức với ngân hàng khi nguồn huy động vốn dài hạn gặp khó khăn, thị trường biến động nhiều đẫn đến nguồn vốn trên thị trường không ổn đinh. Vậy cách thức để tăng nguồn vốn chính là nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh bị phụ thuộc nhiều vào thể chế, năng suất lao động và các yếu tố khách quan khác của nền kinh tế. Vì vậy, theo nhận định của các thành viên được tham khảo: yếu tố ảnh hưởng nhất đến vốn là vấn đề quản
trị rủi ro, quản trị nợ xấu trong ngân hàng, nếu các khoản nợ xấu không được giai quyết triệt để sẽ dẫn đến tăng chi phí trích lập dự phòng và làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Lợi nhuận giữ lại mới là phần vốn quan trọng giúp các ngân hàng tăng vốn điều lệ, cải thiện tỷ lệ an toàn vốn.
Về giám sát hoạt động thuộc trụ cột 2: Đa số mới đáp ứng được phần nhỏ yêu cầu của Basel II đối với trụ cột II (về quy trình đánh giá mức độ đủ vốn nội bộ – ICCAP).
Về tính minh bạch thuộc trụ cột 3 : Hầu hết các ngân hàng đang chấp hành các quy định về công bố thông tin, chế độ báo cáo thống kê của NHNN theo Thông tư 35/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 quy định chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các TCTD, chi nhánh NHNNg và các công văn yêu cầu riêng biệt khác của NHNN (CQTTGSNH). Do đó, việc áp dụng chuẩn mực Basel II vẫn còn khoảng cách rất lớn đối với yêu cầu của Basel II đối với trụ cột III (bao gồm công bố thông tin định tính, định lượng về mức đủ vốn, công bố mức độ rủi ro và kỹ thuật đo lường rủi ro, công bố quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ vốn, công bố tiêu chí xác định mức độ trọng yếu,…).
4.4 Kết quả quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực Basel II tại Vietinbank Vĩnh Long
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Về Các Công Trình Nghiên Cứu Trong Và Ngoài Nước Có Liên Quan
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Theo Chuẩn Mực Basel Ii Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi Nhánh Vĩnh Long
- Đánh Giá Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Theo Chuẩn Mực Basel Ii Tại Vietinbank Vĩnh Long
- Đề Xuất Giải Pháp, Kiến Nghị Nâng Cao Khả Năng Tiếp Cận Chuẩn Mực Basel Ii Trong Công Tác Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương
- Hạn Chế Của Luận Văn Và Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo
- Quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực Basel tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam chi nhánh Vĩnh Long - 14
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Trong thời gian vừa qua Vietinbank Vĩnh Long đã cố gắng, nổ lực tiếp cận các chuẩn mực Basel II, đặc biệt là 17 nguyên tắc vàng trong quản trị rủi ro tín dụng.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn những mặt hạn chế.
4.4.1 Kết quả đạt được
Nhận diện, phân tích, đo lường rủi ro tín dụng: Trong giai đoạn vừa qua, Vietinbank Vĩnh Long đã quan tâm đến công tác đánh giá rủi ro và tính bất định liên quan đến tín dụng. Điều này thể hiện trước hết là ở công tác nhận diện và phân tích rủi ro. Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ đã thống kê những rủi ro tín dụng đã phát sinh, phân tích nguyên nhân dẫn đến rủi ro, tác động có thể ảnh hưởng tới ngân hàng và đưa ra các giải pháp hay chương trình hành động để quản lý, phòng ngừa. Từ đó, ngân hàng đã lập danh mục cảnh báo rủi ro và đưa ra các “Nhóm cảnh báo
rủi ro tín dụng tiêu biểu” từng thời kỳ. Cuối cùng, yêu cầu về đo lường rủi ro tín dụng cũng được Vietinbank Vĩnh Long áp dụng tại khâu tiếp nhận, thẩm định và phê duyệt tín dụng. Ngân hàng đã áp dụng chủ yếu mô hình định tính 6C truyền thống, áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, áp dụng mô hình định lượng là công cụ bổ sung và có xét đến các nội dung của danh mục cảnh báo nói trên trong đánh giá, đo lường rủi ro tín dụng trước khi cấp tín dụng.
Quy trình cho vay và quản trị rủi ro tín dụng không ngừng hoàn thiện: Trong thời gian qua, ngân hàng luôn thực hiện rà soát và hoàn thiện các quy trình, quy chế và các tiêu chuẩn liên quan đến hoạt động kinh doanh, triển khai kịp thời các văn bản về quản lý rủi ro hoạt động được ban hành bởi NHNN. Nhiều biện pháp nhằm tăng cường quản trị rủi ro đã được áp dụng: Hệ thống tính điểm và xếp hạng tín nhiệm đã chính thức được đưa vào ứng dụng trong toàn chi nhánh, làm cơ sở để xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng đã tiến hành áp dụng hạn mức tín dụng nhằm hướng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng theo hướng chuẩn mực quốc tế và đáp ứng các yêu cầu về (i) quản lý rủi ro tổng thể đối với khách hàng; (ii) tăng cường tính tập thể khách quan trong hoạt động tín dụng; (iii) mở rộng quyền chủ động của chi nhánh trong hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu linh hoạt của khách hàng. Qua đó chất lượng tín dụng đã được cải thiện, tỷ lệ nợ quá hạn ở mức thấp so với tiêu chuẩn và mặt bằng chung các ngân hàng trong hệ thống.
Kiểm soát rủi ro tín dụng: Kiểm soát rủi ro tín dụng chặt chẽ sẽ hạn chế được nguy cơ xảy ra và giảm thiểu tối đa thiệt hại của rủi ro tín dụng. Nhận thức được tầm quan trọng này, những năm qua chi nhánh đã áp dụng nhiều biện pháp về kiểm soát rủi ro tín dụng, cụ thể như sau:
- Ngân hàng đã xây dựng các Chính sách tín dụng căn cứ trên định hướng phát triển của Vietinbank Vĩnh Long, trên nội dung của các cảnh báo rủi ro tín dụng và trên cơ sở nghiên cứu diễn biến thị trường tiền tệ. Đây là cơ sở để ngân hàng xác định phân khúc thị trường mục tiêu và chính sách tín dụng áp dụng cho từng nhóm đối tượng khách hàng cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp.
- Vietinbank Vĩnh Long đã và đang hướng tới áp dụng nhiều công cụ, kỹ thuật để kiểm soát từng rủi ro tín dụng như: đo lường rủi ro tín dụng, dự báo kịch bản rủi ro, xây dựng giới hạn, áp dụng các bảo đảm, đưa ra các biện pháp quản lý riêng biệt đối với từng khoản tín dụng và được xét duyệt qua tối thiểu một cấp kiểm soát trước khi phê duyệt chính thức. Bên cạnh đó, ngân hàng còn áp dụng các biện pháp phòng chống rủi ro tín dụng nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại, điển hình như: từ chối cấp tín dụng, giảm thiểu cấp tín dụng, bán nợ, đồng tài trợ hay yêu cầu mua bảo hiểm các bảo đảm tín dụng.
Tuy nhiên, các biện pháp phòng chống, kiểm soát rủi ro trên thực tế vẫn chỉ tập trung vào từng khoản tín dụng mà chưa được theo dõi, áp dụng biện pháp kiểm soát tạo hiệu quả trên tổng thể toàn danh mục. Thông tin khách hàng được lưu trữ, báo cáo độc lập chưa được nhân rộng ở toàn chi nhánh, cơ chế truyền tải thông tin còn nhiều hạn chế.
Các biện pháp kiểm soát phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với từng khoản tín dụng vẫn chưa theo diễn biến thị trường được phân tích bởi các chuyên gia ngành, các biện pháp đưa ra còn mang tính chủ quan và giới hạn trong hiểu biết của cán bộ thẩm định, cấp kiểm soát, cấp phê duyệt. Đặc biệt, vẫn tồn tại quan điểm giữ mối quan hệ với khách hàng truyền thống. Điều này thể hiện ở thực trạng các điều kiện tín dụng ngày càng lỏng lẻo, giảm dần sự kiểm soát và thậm chí còn có trường hợp không kiên quyết trong việc giảm thiểu tín dụng, từ chối tín dụng.
- Vietinbank Vĩnh Long đã triển khai công tác kiểm soát sau giải ngân do các nhân viên tín dụng thực hiện nhằm phát hiện nhanh chóng những rủi ro, những thay đổi bất lợi, ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành nghĩa vụ của khách hàng và kịp thời báo cáo Ban lãnh đạo. Chi nhánh đã xây dựng quy định về việc định kỳ hoặc đột xuất ít nhất 3 tháng 1 lần thực hiện đánh giá lại tình trạng khoản vay, phân tích tình hình khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ thông qua các báo cáo tài chính có kết hợp kiểm tra tình hình thực tế. Tuy nhiên, đơn vị chưa xây dựng quy trình, nội dung cụ thể cần phải thực hiện và trách nhiệm cá nhân trong công tác kiểm soát sau
giải ngân. Dẫn đến công tác này tại Chi nhánh còn rất sơ sài, chưa nghiêm chỉnh, chưa đầy đủ và nhiều sai phạm vẫn diễn ra.
- Ngân hàng còn triển khai công tác giám sát từ xa do bộ phận kiểm soát nội bộ thực hiện ngay tại hội sở chi nhánh. Công việc này nhằm đảm bảo các khoản tín dụng sau phê duyệt được sử dụng đúng mục đích, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai phạm, thiếu sót làm ảnh hưởng đến khả năng thu hồi đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Vietinbank Vĩnh Long đã quy định các khoản tín dụng phải luôn tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng, theo quy định chính sách tín dụng chung, theo quy định từng sản phẩm tín dụng cụ thể và theo đúng điều kiện phê duyệt của từng khoản vay. Tuy nhiên, thực tế việc kiểm tra bởi bộ phận kiểm soát tuân thủ tại chi nhánh là chưa hoàn toàn độc lập với chức năng kinh doanh tại chi nhánh, chưa thực sự phát hiện ra các vấn đề có khả năng gây ra rủi ro lớn trong các hồ sơ tín dụng.Việc theo dõi kiểm tra cũng gặp nhiều khó khăn, chưa sát sao, không mang lại hiệu quả cao do vấn đề hỗ trợ bởi hệ thống, phần mềm cung cấp thông tin, số liệu theo dõi từ xa và vấn đề nhân sự không đảm bảo.
- Công nghệ tiên tiến đã hỗ trợ việc kiểm soát rủi ro tín dụng. Những công cụ trên hệ thống IPCAS với nhiều module nghiệp vụ đã hỗ trợ tối đa công tác kiểm soát rủi ro tín dụng tạo được bước tiến đáng kể, giúp cho công tác theo dõi và chuyển nhóm nợ được thực hiện tự động, nhanh chóng và chính xác.
Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu (CAR):Vietinbank Vĩnh Long luôn cao hơn mức quy định của Basel II và theo quy định NHNN. Để đảm bảo công bố thông tin chính xác và đầy đủ theo về tỷ lệ an toàn vốn, Vietinbank Vĩnh Long đã xây dựng công cụ tính vốn tự động kết nối với kho dữ liệu để thực hiện tính vốn. Quy định vận hành công cụ tính tỷ lệ an toàn vốn theo Basel II & TT41/2016/TT-NHNN và quy định thu thập, công bố thông tin an toàn vốn đã được Vietinbank Vĩnh Long xây dựng và ban hành để thực hiện công bố thông tin theo yêu cầu. Ngày 29/01/2019 và 27/07/2019 Vietinbank Vĩnh Long cũng đã công thông tin tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của TT41/2016/TT-NHNN trên website chính thức của mình.
- Về công bố thông tin: Vietinbank Vĩnh Long cũng đã công thông tin tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của TT41/2016/TT-NHNN trên website chính thức của mình.
4.4.2 Hạn chế và thách thức
- Về năng lực trình độ cán bộ chưa đáp ứng được công nghệ hiện đại. Một trong những khó khăn nhất khi ứng dụng chuẩn mực Basel II vào công tác quản trị rủi ro tại Vietinbank Vĩnh Long đó chính là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Thu hút nhân tài không chỉ cấp bách đối với Vietinbank Vĩnh Long mà dường như đối với tất cả các NHTM tại Việt Nam hay các cơ quan giám sát NHTM như Ngân hàng Nhà nước. Các kiến thức, nguyên tắc về Basel II quá phực tạp trong khi gần như không có tài liệu hướng dẫn nào cụ thể bằng tiếng việt, do đó có thể thấy rằng để nắm vững và vận dụng được các chuẩn mực này đòi hỏi cẩn phải có các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị, giám sát ngân hàng hay cán bộ cấp cao phụ trách phải có một kiến thức nhất định, giỏi về ngoại ngữ lẫn quản trị. Bên cạnh đó các kỹ năng phân tích, dự báo cũng là những kỹ năng không thể thiếu. Đây thực sự là một trong những thách thức đối với nguồn nhân lực hiện nay. Dù cho các ngân hàng có thể thu hút được các chuyên gia thì việc giữ chân những chuyên gia này là rất khó khăn.
- Về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của ngân hàng đã có, nhưng hệ thống xếp hạng tín dung tại Vietinbank Vĩnh Long chưa thực sự linh hoạt đối với các khoản vay không có tài sản và các khoản vay thế chấp, các chỉ số xếp hạng mới nằm ở mức tương đối dựa trên phân tích từ dữ liệu quá khứ. Một phần là do dữ liệu quá khứ của bản thân ngân hàng còn ít nên chủ yếu ngân hàng phải mua dữ liệu từ bên ngoài. Chính vì điều đó, mô hình xếp hạng tín dụng còn ẩn chưa rất nhiều bất cập sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyết địn h phê duyệt và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, Vietinbank Vĩnh Long cần hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng để đáp ứng yêu cầu quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực Basel II. Thực tế tại Việt Nam đang rất thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp, vì vậy các NHTM nói chung, trong đó có cả
Vietinbank Vĩnh Long phải dựa vào những tài liệu tham khảo và hoạt động thực tế dưới sự tư vấn của 1 số các công ty để xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
- Quy trình tín dụng bộc lộ một số hạn chế và chưa được thực hiện nghiêm ngặt, đầy đủ tại một số đơn vị trong chi nhánh. Cán bộ tín dụng là người tìm kiếm khách hàng, phân tích đánh giá khách hàng, trình duyệt cho vay, kiểm tra trong và sau cho vay. Trong khi quy trình cấp tín dụng tại các ngân hàng tiên tiến là một cấu trúc có tính hệ thống trong đó nhiều người cùng tham gia và mỗi cán bộ chủ chốt tham gia vào một hoặc một số khâu tác nghiệp để chuyên sâu và giảm thiểu rủi ro. Với quy trình hiện tại, cán bộ tín dụng phải làm nhiều việc, do vậy mức độ chuyên sâu vào từng nghiệp vụ rất khó. Thực tế sau đợt kiểm tra cho thấy khâu kiểm tra sau cho vay chưa được thực hiện nghiêm túc. Trong thời gian vừa qua đã có những trường hợp còn vi phạm quy trình cho vay mà ngân hàng phải xử lý.
- Kế hoạch dự phòng vốn và đảm bảo tỷ lệ vốn theo yêu cầu. Theo yêu cầu của Basel II thì các ngân hàng phải luôn đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tại mọi thời điểm. Tuy nhiên, hiện nay nguồn vốn dài hạn đang khá khan hiếm. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc nguồn vốn bên vững của ngân hàng. Tuy đã có thể đáp ứng được yêu cầu về vốn cho Basel II nhưng Vietinbank Vĩnh Long vẫn chưa xây dựng được kịch bản về vốn trong tương lai, nhằm dự phòng khả năng không đáp ứng được tỷ lệ về an toàn vốn vì đối với huy động vốn cấp 1, huy động vốn nước ngoài thì gặp khó khăn do NHNN áp trần sở hữu. Do vậy, Vietinbank Vĩnh Long cũng áp dụng phát hành trái phiếu để tăng vốn cấp 2, nhưng đây chỉ là biện pháp tạm thời vì nó sẽ làm cho chi phí vốn tăng cao.
- Sau khi đã hoàn thành Basel II theo phương pháp cơ bản thì Vietinbank Vĩnh Long phải tiến hành áp dụng theo phương pháp nâng cao. Muốn áp dụng được phương pháp này đòi hỏi Vietinbank Vĩnh Long phải có 1 cơ dữ liệu thông tin hết sức đầy đủ trong khi hệ thống công nghệ ngân hàng lõi (core banking system) tại các ngân hàng có quá nhiều hệ thống khác nhau và dữ liệu đã không được chú trọng thu thập và quản trị một cách có hệ thống trong suốt thời gian dài. Do đó, hầu hết
các ngân hàng không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu độ dài dữ liệu cho một số mô hình phân tích. Việc xây dựng hệ thống và thu thập dữ liệu sẽ cần thời gian, công sức và tốn rất nhiều chi phí khi triển khai.
- Kiểm toán nội bộ vẫn chưa thực hiện đầy đủ vai trò của hàng rào bảo vệ thứ ba. Theo Basel II, Kiểm toán nội bộ là một đơn vị đánh giá thiết kế và tính hiệu quả của các quy trình, hệ thống và công cụ quản lý rủi ro.
- Ngân hàng chưa tiến hành phân nhóm rủi ro, tính toán thiệt hại, thống kê tần suất xảy ra để biết được loại rủi ro xảy ra nhiều tại chi nhánh thời gian qua. Theo các báo cáo tại các cuộc họp giao ban, báo cáo kinh doanh hàng kỳ của các phòng ban chưa có báo cáo cụ thể về tần suất hay tổng thiệt hại theo từng loại rủi ro, theo từng nguyên nhân, theo từng khâu của quy trình tín dụng. Thực tế các số liệu về rủi ro tín dụng của ngân hàng chỉ được báo cáo theo chất lượng nhóm nợ, tổng số khách hàng xảy ra rủi ro tín dụng mà vẫn chưa có bộ phận nào chịu trách nhiệm thống kê về tần suất hay tổng thiệt hại này.
- Các công cụ đo lường rủi ro tín dụng được áp dụng còn có khoảng cách rất xa với chuẩn mực thông lệ quốc tế. Thông tin phục vụ công tác thẩm định đo lường trước khi cấp tín dụng vẫn còn chưa đầy đủ, thiếu chính xác, thiếu tính quy chuẩn, không có hệ thống. Điều này dẫn đến công tác quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng hết sức khó khăn và công tác dự báo phòng ngừa vẫn chưa đáp ứng được theo yêu cầu của Ban giám đốc đặt ra.
- Cơ chế nhận diện rủi ro tín dụng thời gian qua còn nhiều hạn chế, sự hỗ trợ bởi phần mềm có tính năng cảnh báo, nhận diện, phát hiện các khoản mục có vấn đề vẫn chưa được phát triển. Thực tế các rủi ro chủ yếu được báo cáo, nghiên cứu và ban hành để phòng ngừa khi đã xảy ra, gây thiệt hại lớn. Với những dấu hiệu ban đầu có khả năng gây ra rủi ro tín dụng vẫn chưa được ngân hàng quan tâm, chưa được phân tích và có biện pháp ngăn chặn xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, các báo cáo còn mang tính bị động, chỉ được thực hiện khi được yêu cầu, chưa có cơ chế báo cáo tự động, chưa có cơ chế, chế tài đối với các đơn vị không thực hiện nghiêm túc việc báo cáo các trường hợp khẩn cấp có khả năng xảy ra rủi ro tín dụng.