khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình thành khung chính xác tín dụng theo mô hình điểm số.
Bảng 1.3 Quy đổi điểm sang hạn mức cho vay
Tổng điểm số của khách hàng | Quyết định tín dụng | |
1 | Từ 28 điểm trở xuống | Từ chối tín dụng |
2 | 29 – 30 điểm | Cho vay đến $500 |
3 | 30 – 33 điểm | Cho vay đến $1,000 |
4 | 34 – 36 điểm | Cho vay đến $2,500 |
5 | 37 – 38 điểm | Cho vay đến $3,500 |
6 | 39 – 40 điểm | Cho vay đến $5,000 |
7 | 41 – 43 điểm | Cho vay đến $800 |
Có thể bạn quan tâm!
- Khách Hàng Phải Cam Kết Hoàn Trả Vốn (Gốc) Và Lãi Với Thời Gian Xác Định
- Nhóm Dấu Hiệu Phát Sinh Rủi Ro Từ Phía Khách Hàng
- Những Hạng Mục Và Biểu Điểm Được Sử Dụng Tại Các Ngân Hàng Của Mỹ Trong Mô Hình Điểm Số Tín Dụng Tiêu Dùng
- Tổng Quan Về Vietinbank – Chi Nhánh Vân Đồn
- Mục Tiêu Chiến Lược Của Vietinbank – Chi Nhánh Vân Đồn.
- Biểu Đồ Kết Quả Kinh Doanh Qua Các Năm 2015,2016,2017
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, 2010, tr.390
Mô hình trên loại bỏ được sự phán xét chủ động trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian ra quyết định tín dụng. Tuy vậy, mô hình không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và cuộc sống gia đình.
♦ Mô hình xếp hạng của Moody's
Mô hình này xếp hạng tình trạng hoạt động của các doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ rủi ro hàng năm, chất lượng này có thể thay đổi qua từng năm. Các doanh nghiệp đầu tư tỷ lệ rủi ro dưới 0,1%, còn các doanh nghiệp đầu cơ thì tỷ lệ thường giao động từ 0,2% đến 0,8%.
Bảng 1.4 Xếp hạng doanh nghiệp của Moody’s
Xếp hạng | Tình trạng | Tỷ lệ rủi ro hàng năm | |
1 | Aaa | Chất lượng cao nhất | 0,02% |
2 | Aa | Chất lượng cao | 0,04% |
3 | A | Chất lượng khá | 0,08% |
4 | Baa | Chất lượng vừa | 0,2% |
5 | Ba | Nhiều yếu tố đầu cơ | 1,8% |
6 | B | Đầu cơ | 8,3% |
Nguồn: Theo báo cáo của Moody’s |
1.3.2.3 Ứng phó rủi ro
● Các công cụ quản trị RRTD
Mức ủy quyền phán quyết là hạn mức tín dụng tối đa mà hội sở chính giao cho chi nhánh dược toàn quyền quyết định.
Giới hạn rủi ro là mức rủi ro tối đa mà ngân hàng có thể chịu đựng được để đảm bảo đạt được mức lợi nhuận tương ứng.
Quản lý danh mục cho vay: Ngân hàng phải thường xuyên phân tích và theo dõi danh mục tín dụng, đặc biệt là các khoản nợ xấu, nợ có vấn đề để có biện pháp xử lý kịp thời khi có rủi ro xảy ra. Ngân hàng hết sức lưu ý tới các khoản nợ "đặc biệt chú ý" vì một khi có biến động bất lợi xảy ra đối với hoạt động cho vay, các khoản này dễ bị chuyển thành nợ xấu.
Để hoạt động quản trị RRTD diễn ra hiệu quả, các NHTM cần xây dựng một hệ thống thông tin tín dụng tập trung gồm các báo cáo định kỳ và báo cáo đặc biệt. Báo cáo định kỳ có thể để cập đến: Nhóm khách hàng có dư nợ tín dụng lớn nhất; các khoản dư nợ lớn nhất; vượt hạn mức tín dụng; các khoản nợ xấu; các dấu hiệu cảnh báo sớm, dự phòng cho từng khoản dư nợ đơn lẻ, lợi nhuận cho từng khách hàng và sản phẩm, nhật ký theo dõi các khoản vay.
● Rà soát chính sách quản trị rủi ro theo từng thời kỳ
Chính sách quản trị RRTD nhằm hạn chế rủi ro như: chính sách TSĐB, chính sách bảo lãnh, chính sách đồng tài trợ…Từ chính sách này mà quy trình tín dụng với những hướng dẫn nghiệp vụ chi tiết, các bước cụ thể trong quá trình
cấp tín dụng được hình thành. Một chính sách phù hợp là phải vạch ra cho CBTD phương hướng hoạt động và một khung tham chiếu rõ ràng để làm căn cứ xem xét các nhu cầu vay vốn. Điều này tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
● Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng
Việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng ngoài mục đích đáp ứng những nhu cầu ngày càng mới mẻ và nâng cao của khách hàng, làm phong phú các loại hình tín dụng, tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác mà còn có tác dụng không nhỏ tới phân tán rủi ro theo danh mục tài sản, góp phần giảm thiệt hại xảy ra khi có rủi ro với một số loại tài sản nhất định.
● Phân tán rủi ro
Ngân hàng không nên tập trung cấp tín dụng cho một ngành, một lĩnh vực hay một khu vực bởi sẽ giống như “Bỏ trứng vào một rổ”, nếu lĩnh vực mà ngân hàng tập trung vào mà gặp những biến động bất lợi thì thiệt hại của ngân hàng sẽ vô cùng lớn. Vì vậy phân tán rủi ro hay chia nhỏ lĩnh vực đầu tư, khu vực đầu tư là biện pháp an toàn nhất.
Tương tự như trên, không nên dồn vốn đầu tư vào một hoặc một số khách hàng: Dù cho khách hàng có quan hệ lâu năm với ngân hàng hoặc kinh doanh hiệu quả thì ngân hàng vẫn nên thận trọng, bởi nếu không may khách hàng gặp rủi ro thì ngân hàng cũng phải chịu tổn thất.
Hình thức cho vay đồng tài trợ cũng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, NHTM không cần phải bỏ ra nhiều vốn mà vẫn đầu tư vào được các dự án lớn, phân tán được rủi ro do cùng các ngân hàng thành viên khác cấp vốn cho dự án.
● Sử dụng các công cụ tín dụng phái sinh
Sử dụng Hợp đồng hoán đổi tín dụng (Credit swap), hợp đồng quyền chọn tín dụng (Credit option) để phòng ngừa và hạn chế RRTD. Cụ thể, hợp đồng quyền chọn tín dụng có thể được sử dụng để bảo vệ ngân hàng trước rủi ro chi phí vay vốn tăng do sự giảm sút chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.3.3 Các mô hình quản trị RRTD
Mô hình quản trị RRTD là cách thức tổ chức quản lý, đo lường, kiểm soát RRTD nhằm khống chế RRTD trong một giới hạn cho phép theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của CBTD.
Cụ thể hơn, mô hình quản trị RRTD chính là hệ thống các mô hình bao gồm mô hình tổ chức quản trị rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản lý tín dụng của ngân hàng.
Mô hình quản trị RRTD phản ánh một hệ thống các vấn đề cơ bản sau:
(i) Các cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ để thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát rủui ro trong một quy trình thực hiện nghiệp vụ
(ii) Các công cụ đo lường, phát hiện rủi ro.
(iii) Các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới phát sinh.
(iv) Các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó một khi có rủi ro xảy ra.
Hiện nay ở Việt Nam đang có hai mô hình quản trị RRTD phổ biến được áp dụng, đó là mô hình quản trị RRTD tập trung và mô hình quản trị RRTD phân tán với những ưu, nhược điểm đặc trưng.
1.3.3.1 Mô hình quản trị RRTD tập trung
Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa 3 chức năng: quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa ba chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng.
Ưu điểm: Mô hình quản trị RRTD tập trung giúp quản trị rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài. Bên cạnh đó, nó còn thiết lập và duy trì môi trường quản trị rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro. Các hoạt động kinh doanh, tác nghiệp, quản trị RRTD được tách biệt hoàn toàn độc lập với nhau. Chính vì vậy, mô hình này thích hợp với ngân hàng quy mô lớn.
Nhược điểm: việc xây dựng và triển khai mô hình quản trị tập trung này đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và thời gian. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ phải có kiến thức cần thiết và biết áp dụng lý thuyết với thực tiễn.
1.3.3.2 Mô hình quản trị RRTD phân tán
Mô hình này chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ ba chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay.
Ưu điểm: Khác với mô hình quản trị RRTD tập trung, cơ cấu tổ chức của mô hình quản trị RRTD phân tán gọn nhẹ, đơn giản hơn. Do đó, hồ sơ được giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm thời gian cho khách hàng. Với những đặc điểm này mà mô hình phân tán hoàn toàn phù hợp với ngân hàng có quy mô nhỏ.
Nhược điểm: Mô hình phân tán cũng bộc lộ nhiều nhược điểm như nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu; việc quản lý hoạt động tín dụng đều theo phương thức từ xa dựa trên số liệu chi nhánh báo các lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín dụng.
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động tín dụng, theo khuyến cáo
của ủy ban Basel và tuân thủ thông lệ quốc tế, căn cứ vào các điều kiện chung về pháp lý, thị trường, công nghệ, con người, mô hình khuyến nghị nên áp dụng đối với các các NHTMVN là mô hình quản lý rủi ro tập trung.
Với mô hình này, bộ phận quan hệ khách hàng chịu trách nhiệm tìm kiếm, phát triển và chăm sóc khách hàng. Bộ phận này sẽ tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ vay vốn, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ và các thông tin liên quan đến khách hàng cho bộ phận phân tích tín dụng.
Bộ phận phân tích tín dụng kiểm tra thông tin, thu thập các thông tin bổ
sung qua các kênh thông tin lưu trữ ngân hàng, hỏi tin qua CIC, tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng… Trên cơ sở thông tin đó, bộ phận phân tích tín dụng thực hiện phân tích, đánh giá toàn bộ các nội dung từ tình hình chung về khách hàng, tình hình tài chính, phương án, dự án vay vốn đến các nội dung về đảm bảo tiền vay. Bộ phận phân tích tín dụng trực tiếp báo cáo kết quả, phân
tích đánh giá khách hàng lên người phê duyệt
tín dụng. Kết quả phê duyệt
tín
dụng sau đó sẽ được chuyển cho bộ phận phân tích tín dụng để lưu trữ thông tin đồng thời được chuyển cho bộ phận quan hệ khách hàng để thực hiện các khâu tiếp theo trong quy trình tín
dụng.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại.
1.3.4.1. Nhân tố chủ quan
+ Từ phía ngân hàng
Công tác kiểm soát nội bộ các ngân hàng còn lỏng lẻo
Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn Thanh tra Ngân hàng Nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay từ khi phát sinh vấn đề và tính sâu sát của kiểm soát viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian qua, công việc kiểm soát nội bộ của các Ngân hàng hầu hết chỉ tồn tại trên hình thức, chưa phát huy được hết hiệu quả.
Cán bộ tín dụng thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đạo đức của cán bộ là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực, trình độ chuyên môn có thể bồi dưỡng thêm nhưng một cán bộ bị tha hóa về đạo đức mà giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Trình độ chuyên môn của các cán bộ tín dụng còn hạn chế dẫn đến hàng loạt các nguyên nhân sau:
Thiếu khả năng phân tích khách hàng như khả năng phân tích thẩm định dự án nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc không phân tích được báo cáo tài chính một cách chính xác, không biết được năng lực thật sự của khách hàng.
Quá trình tái xét khoản vay không tích cực: tái xét là quá trình theo dõi, giám sát khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không? Có nguy cơ xảy ra
mất vốn hay không? Nếu xét thấy khả năng xấu có thể xảy ra thì phải tiến hành thu hồi nợ trước hạn hoặc đề ra biện pháp hỗ trợ thích hợp. Tái xét cho vay không tích cực, không chặt chẽ để đến khi vỡ nợ NH sẽ khó thu hồi nợ.
Thiếu sự giám sát và quản lý sau khi cho vay: các NH thường tập trung nhiều công sức vào việc thẩm định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn của mình sau khi cho vay. Khi NH cho vay thì các khoản vay cần được quản lý một cách chủ động để đảm bảo nguyên tắc sẽ được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn.
Vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng (CIC) chưa thực sự hiệu quả.
Trong tình trạng cạnh tranh gay gắt như hiện nay giữa các NHTM thì vai trò Trung tâm thông tin tín dụng là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các NH có quyết định cho vay hợp lý. Nhưng trên thực tế thì hiện nay NH dữ liệu của Trung tâm thông tin tín dụng chưa đầy đủ và thông tin chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Tính sai lầm trong nghiệp vụ.
Cho vay quá mức so với khả năng trả nợ vay của khách hàng. Do không phân tích, thẩm định kỹ khách hàng dẫn đến không đánh giá chính xác thực trạng khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng.
Định kỳ hạn trả nợ của khoản vay không đúng thực tế, phải xác định được chính xác nguồn thu nhập dự kiến tại các kỳ hạn trả nợ. Nếu xác định kỳ hạn sai sẽ xảy ra hai trường hợp:
Khách hàng có thu nhập sớm hơn thời điểm trả nợ cho nên dễ dẫn đến số tiền thu được sẽ sử dụng vào mục đích khác, nên khi đáo hạn, khách hàng không có tiền trả nợ cho NH.