Tóm lại, có rất nhiều cách tiếp cận và đưa ra khái niệm về quản trị RRTD khác nhau, trong nghiên cứu này quản trị RRTD được hiểu là việc xây dựng cơ cấu tổ chức nhằm thực hiện tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo tổn thất mà ngân hàng có thể chấp nhận được.
Vai trò của quản trị RRTD trong NHTM
Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng: vai trò của quản trị RRTD là hết sức quan trọng, điều này được thể hiện như sau: hoạt động tín dụng luôn đem lại nguồn lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàn, vì vậy khi phát sinh RRTD sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Khi RRTD xuất hiện sẽ phát sinh các khoản nợ khó đòi, các khoản chi phí kèm theo bao gồm: chi phí thu nợ, chi phí trích lập dự phòng…Vì vậy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng sẽ giảm xuống, đồng thời dòng vốn của ngân hàng sẽ không như kế hoạch do đó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của các ngân hàng. Bên cạnh đó rõ ràng một thực tế đã chứng minh, việc để phát sinh RRTD sẽ làm giảm uy tín ngân hàng và có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Trong trường hợp tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng diễn ra nhiều, hoặc thông tin RRTD bị lộ lọt ra ngoài công chúng, uy tín của ngân hàng chắc chắn giảm sút. Ngoài ra, với rất nhiều khách hàng cùng không thực hiện được nghĩa vụ tín dụng thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng chắc chắn sẽ trong trạng thái tê liệt và sụp đổ.
Đối với nền kinh tế: Nếu công tác quản trị RRTD của các NHTM không được thực hiện tốt sẽ có ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, cụ thể: như đã phân tích ở trên khi xảy ra RRTD sẽ tạo ra những hậu quả xấu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: giảm uy tín, mất khả năng thanh khoản hoặc có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động của ngân hàng mang tính chất hệ thống, một sự sụp đổ của bất cứ ngân hàng nào cũng sẽ kéo theo hậu quả lây lan sang các ngân hàng khác, hoạt động điều chuyển vốn trên thị trường lập tức bị đình trệ, hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế gián đoạn và làm giảm lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính cũng như các chính sách của Chính phủ.
Rủi ro phát sinh trong hoạt động tín dụng ngày một gia tăng: thực tế, với tình hình kinh tế như hiện nay, khi sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt thì rõ ràng việc các doanh nghiệp hay cá nhân đang được NHTM cấp tín dụng đều sẽ chịu rủi ro về phá sản, hiệu quả kinh doanh kém dẫn đến khả năng thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng suy giảm hoặc không thể thực hiện được, do đó RRTD xảy ra là điều tất yếu. Ngoài ra, xuất
phát từ chính bản thân các tổ chức ngân hàng, cũng do áp lực phát triển mở rộng sẽ có những sản phẩm tín dụng dễ mở rộng lượng khách hàng nhưng cũng tràn đầy nguy cơ rủi ro như: sản phẩm thẻ tín dụng, vay tín chấp tiêu dùng…Bên cạnh đó, môi trường kinh tế, pháp luật thiếu ổn định, không rõ ràng minh bạch cũng làm cho hoạt động kinh doanh tín dụng của các NHTM trở nên thiếu an toàn.
Các ngân hàng muốn tạo ra được lợi thế cạnh tranh của mình thì một trong những điều kiện cần thiết đó là có được lợi thế về quản trị rủi ro. Đối với mỗi một ngân hàng, hệ thống quản trị RRTD nếu chặt chẽ, phù hợp với mục tiêu phát triển chung của ngân hàng thì nó sẽ là nền móng, nguồn lực quan trọng để ngân hàng đó có thể tồn tại, phát triển được lâu dài, ổn định, tránh đổ vỡ một ngân hàng nói riêng, đồng thời kéo theo sự liên đới trách nhiệm của toàn bộ hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
2.2.2. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng
Mô hình quản trị RRTD tại các NHTM thường sử dụng 02 mô hình được giới thiệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Tiến (2012) [46] và Bessi (2015) [85]
Có thể bạn quan tâm!
- Mô Hình Nghiên Cứu Định Lượng Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Trị Rrtd Tại Vpbank (Đối Với Cán Bộ Nhân Viên Vpbank)
- Một Số Nghiên Cứu Liên Quan Đến Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại
- Lý Luận Chung Về Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Tổ Chức Thực Hiện Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại
- Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Nhtm Tại Việt Nam
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
Mô hình quản trị RRTD tập trung: công tác thẩm định khách hàng, quản lý rủi ro khách hàng, ngân hàng được tập trung ở hội sở chính hoặc theo vùng, miền. Mô hình này tách biệt độc lập giữa 02 chức năng: chức năng kinh doanh, chức năng quản trị rủi ro.
Nguồn: Nguyễn Văn Tiến (2012) [46] Joel Bessis (2015) [85]
Hình 2.1. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung
- Ưu điểm của mô hình quản trị RRTD tập trung:
+ Thiết lập và duy trì môi trường quản trị rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro;
+ Quản trị rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo phù hợp ổn định tín dụng, giúp các NHTM cạnh tranh lâu dài, bền vững;
+ Xây dựng chính sách quản trị rủi ro thống nhất cho toàn hệ thống. Tách biệt hoàn toàn, độc lập chức năng kinh doanh, tác nghiệp, quản lý rủi ro tín dụng. Đây cũng chính là ưu điểm lớn nhất của mô hình này, quản trị RRTD không bị ràng buộc bởi kế hoạch kinh doanh của ngân hàng.
- Nhược điểm của mô hình quản trị RRTD tập trung:
+ Do tất cả các hồ sơ tín dụng đều được xử lý tập trung tại Hội sở chính hoặc theo vùng, miền vì vậy xử lý hồ sơ có thể sẽ mất nhiều thời gian hơn đôi khi chưa đáp ứng được kịp thời nhu cầu của khách hàng.
+ Xây dựng và triển khai mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung này đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và thời gian và tiền của.
+ Phải có phần mềm hỗ trợ cho việc tổng hợp, phân loại số liệu từ chi nhánh lên Hội sở chính và theo các tiêu chí chuẩn hóa nhất định, do đó công tác nhập số liệu thường gặp nhiều khó khăn.
+ Đội ngũ cán bộ phải có kiến thức chuyên môn sâu, rộng và biết vận dụng lý thuyết vào công việc.
- Phạm vi áp dụng: Mô hình này thông thường được thực hiện ở các ngân hàng có quy mô hoạt động lớn.
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán: công tác thẩm định khách hàng, quản lý rủi ro của ngân hàng được thực hiện tại các chi nhánh riêng biệt. Hội sở chính chỉ có nhiệm vụ chỉ đạo hướng dẫn chung và thẩm định khách hàng vượt quá khả năng cho phép của chi nhánh. Mô hình này chưa tách biệt được độc lập chức năng kinh doanh và chức năng quản trị rủi ro.
Nguồn: Nguyễn Văn Tiến (2012) [46] và Joel Bessis (2015) [85]
Hình 2.2. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán
- Ưu điểm của mô hình quản trị RRTD phân tán:
+ Giải quyết hồ sơ nhanh, tiết kiệm thời gian cho khách hàng. Xây dựng và triển khai mô hình quản lý rủi ro tín dụng phân tán không mất nhiều công sức và thời gian.
+ Cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đơn giản.
- Nhược điểm của mô hình quản trị RRTD phân tán:
+ Không có sự tách biệt hoàn toàn, độc lập chức năng kinh doanh, tác nghiệp,quản trị RRTD. Do đó có thể phát sinh nhiều quyết định cấp tín dụng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quản trị RRTD.
+ Theo mô hình quản trị RRTD này thì chủ yếu quản lý đều theo phương thức từ xa dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín dụng, các chi nhánh được quyền tự quyết nhiều khoản cấp tín dụng, do đó xác suất xảy ra RRTD là khá cao.
+ Theo mô hình quản trị RRTD phân tán các công việc liên quan đến tín dụng thường tập trung về một bộ phận xử lý, do vậy thiếu có sự chuyên sâu và có thể xảy ra sai xót do không có sự kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận công tác.
- Phạm vi áp dụng: Thực tế cho thấy thông thường mô hình quản trị RRTD phân tán được áp dụng thực hiện ở các ngân hàng có quy mô nhỏ.
Theo D. Lando (2004): Mô hình quản trị RRTD là cách thức tổ chức quản lý, đo lường, kiểm soát RRTD nhằm khống chế RRTD trong một giới hạn cho phép theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở khái niệm đó, có thể hiểu một cách mở rộng hơn, mô hình quản trị rủi ro tín dụng bao gồm hệ thống các mô hình bao gồm mô hình tổ chức quản lý rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản lý tín dụng của ngân hàng.
Hiệu quả quản trị RRTD trong các NHTM luôn đứng trước vấn đề đó là làm sao cân bằng giữa việc đảm bảo lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh và việc đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Để giải quyết được vấn đề này, theo Ủy ban Basel tổ chức bộ máy quản trị RRTD cần tránh sự trùng lặp về chức năng và xung đột lợi ích giữa các bộ phận kiểm soát. Vì vậy, hiện nay, các NHTM thực hiện tổ chức bộ máy quản trị RRTD theo “3 vòng kiểm soát” , cụ thể như sau:
Nguồn: Tài liệu quản trị rủi ro của IFC
Hình 2.3. Tổ chức bộ máy quản trị RRTD tại các NHTM theo Hiệp ước Basel 2
Vòng thứ nhất (vòng quan hệ khách hàng) bao gồm các khối kinh doanh, bán hàng, các chuyên viên khách hàng, chi nhánh, các đơn vị vận hành tại hội sở như thẩm định, phê duyệt tín dụng, giảm sát tín dụng... Đây là vòng đầu tiên và là vòng trực tiếp tiếp nhận RRTD thông qua hoạt động cấp tín dụng. Nhiệm vụ chính của các đơn vị này là xác định, đánh giá, ngăn ngừa, báo cáo và theo dõi các rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh (cho vay) và các quy trình vận hành khác; bảo vệ
lợi ích của đơn vị thông qua việc tự đánh giá rủi ro và kiểm soát tính hiệu quả của từng đơn vị. Vòng này đảm bảo RRTD và môi trường kiểm soát rủi ro được thiết lập ngay trong giao dịch tín dụng hàng ngày của ngân hàng. Theo số liệu thống kê tại NHTM ở các quốc gia phát triển, vòng quan hệ khách hàng có thể kiểm soát và hạn chế đến 80% RRTD của một ngân hàng.
Vòng thứ hai (quản lý rủi ro) bao gồm Khối quản trị rủi ro và Khối tuân thủ, quản trị rủi ro hoạt động và pháp chế. Nhiệm vụ của vòng quản lý rủi ro này là thiết lập chiến lược quản trị rủi ro, khẩu vị rủi ro, chính sách quản trị RRTD, các quy trình, quy chế quản trị RRTD, xây dựng hệ thống thông tin, hoạt động kiểm tra các khoản đã được cấp tín dụng, đưa ra các công cụ dùng để báo cáo kiểm soát RRTD…, đánh giá và kiểm soát hiệu quả hoạt động vòng thứ nhất. Theo yêu cầu của Ủy ban Basel, hoạt động của vòng thứ hai phải độc lập với vòng thứ nhất. Theo thống kê, vòng quản lý rủi ro có thể hạn chế khoảng 10% RRTD của một ngân hàng. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của vòng thứ hai cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của vòng 1, do vòng 2 là vòng thiết lập được các chính sách, quy định để vòng 1 thực thi quản trị RRTD.
Vòng thứ ba (Kiểm toán nội bộ): bộ phận Kiểm toán nội bộ, đây là bộ phận trực thuộc Ban kiểm soát và không thuộc Ban điều hành của ngân hàng nên việc đánh giá với 2 tuyến phòng thủ trước và các rủi ro có thể xảy ra được độc lập và khách quan.Thông thường vòng thứ 3 trực thuộc HĐQT để đảm bảo tính độc lập, đồng thời giúp cho HĐQT, Ban Kiểm soát có thể nắm bắt thông tin xuyên suốt hoạt động của các bộ phận kinh doanh, bộ phận quản trị RRTD trong toàn hệ thống ngân hàng. Vòng kiểm soát này có thể hạn chế khoảng 10% RRTD của ngân hàng.
Sự phối kết hợp giữa ba vòng kiểm soát: Rõ ràng theo nhiệm vụ về kiểm soát rủi ro tại ba vòng nêu trên thì với mô hình 3 tuyến kiếm soát này, tất cả các đơn vị trong hệ thống đều phải tham gia vào quá trình quản trị RRTD, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được phân công và có sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo quản trị RRTD diễn ra nhịp nhàng và hiệu quả. Nội dung thực thi theo mô hình “3 vòng kiểm soát” thoạt nhìn khá đơn giản, tuy nhiên theo các chuyên gia thì để mô hình vận hành thành công đòi hỏi sự đầu tư rất tốn kém cả về tiền bạc, thời gian. Điều quan trọng là để thực hiện thành công đòi hỏi sự tuân thủ đầu tiên từ lãnh đạo ngân hàng, bởi lẽ họ cần phải có sự bằng phù hợp giữa lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng và đảm bảo an toàn trong việc sử dụng vốn tín dụng.
Rủi ro tín dụng phát sinh tại từng vòng kiểm soát
Vòng kiểm soát thứ nhất: Bộ phận chủ lực kiểm soát RRTD ở vòng này là bộ phận kinh doanh – đơn vị trực tiếp xử lý, tiếp nhận hồ sơ của khách hàng; bộ phận thẩm định và phê duyệt. Nhiệm vụ của bộ phận kinh doanh - là bộ phận vừa phải chịu trách nhiệm tìm kiếm, phân loại và lựa chọn khách hàng, phát triển kinh doanh, vừa phải phối hợp với các bộ phận khác như: hỗ trợ tín dụng, thẩm định, phê duyệt tín dụng, kiểm soát sau cho vay,... để hoàn thành một quy trình tín dụng. Nhiệm vụ của bộ phận thẩm định và phê duyệt là kiểm soát, đánh giá tính khả thi và rủi ro của các khoản xin cấp tín dụng từ bộ phận kinh doanh đưa lên. Vì vậy, những đơn vị này sẽ chịu tác động rủi ro phát sinh từ cả bên ngoài lẫn bên trong ngân hàng như:
Đối với nhóm nguyên nhân bên ngoài ngân hàng bao gồm nhưng yếu tố liên quan đến tình hình kinh tế vĩ mô nói chung như: tỷ lệ tăng trưởng GDP, lạm phát, xu hướng phát triển của ngành,... có tác động đến hoạt động kinh doanh của khách hàng xin cấp tín dụng. Đây là nhóm nguyên nhân mà bộ phận kinh doanh, thẩm định và phê duyệt tín dụng thường xuyên phải nghiên cứu trong quá trình lựa chọn các khách hàng đủ tiêu chuẩn cấp tín dụng. Bởi chỉ cần một trong những yếu tố này có sự thay đổi theo chiều hướng xấu, cán bộ tại vòng kiểm soát này không nắm bắt kịp thời, sẽ dẫn đến có những kiến nghị không chính xác, dẫn đến phát sinh RRTD cho ngân hàng và ngược lại.
Đối với nhóm nguyên nhân bên trong ngân hàng: tại các bộ phận thuộc vòng kiểm soát số 1, RRTD phát sinh xuất phát từ những nguyên nhân chính như: chính sách tín dụng của bản thân ngân hàng; tốc độ tăng trưởng tín dụng; quy mô của ngân hàng; trình độ của nguồn nhân lực ngân hàng. Một số nghiên cứu thực nghiệm cho thấy những ngân hàng có quy mô lớn thì rủi ro tín dụng phát sinh lớn hơn ngân hàng có quy mô nhỏ bởi đối tượng khách hàng tại những ngân hàng này thường được chọn lọc khắt khe hơn, do đó khả năng phát sinh RRTD thấp hơn khi thực hiện cấp tín dụng. Chính sách tín dụng, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tại NHTM trong từng thời kỳ cũng có tác động không nhỏ đến việc lựa chọn, thẩm định và phê duyệt các khoản tín dụng. Nhân tố nguồn nhân lực thể hiện trên hai khía cạnh là trình độ chuyên môn nhân sự và đạo đức nghề nghiệp. Nhân sự ở vòng kiểm soát này phải được đảm bảo có chất lượng về chuyên môn, đồng thời luôn đảm bảo thực hiện đúng trách nhiệm của mình, không phát sinh tư lợi cá nhân làm sai lệch hồ sơ tín dụng mang lại rủi ro cho ngân hàng.
Vòng kiểm soát thứ hai: Ngoài nhiệm vụ chủ yếu ngoài việc phát triển chính sách, công cụ quản lý nợ, phát hiện, cảnh báo rủi ro sớm,... thì đánh giá lại và kiểm soát hiệu quả rủi ro sau vòng kiểm soát một cũng là nhiệm vụ quan trọng mà các đơn vị tại vòng kiểm soát thứ hai phải thực hiện. Xuất phát từ những nhiệm vụ này, những tác động của nhóm nhân tố bên ngoài như tình hình kinh tế vĩ mô và nhóm nhân tố bên trong ngân hàng là chính sách tín dụng, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, nguồn nhân lực cũng sẽ ảnh hưởng đến phát sinh RRTD ngân hàng.
Vòng kiểm soát thứ ba: Đây là vòng kiểm soát cuối cùng và được thực hiện bởi bộ phận kiểm toán nội bộ (chịu điều hành trực tiếp của Hội đồng quản trị NHTM). Kiểm toán nội bộ thực hiện đánh giá độc lập, khách quan, phát hiện sai phạm, cảnh báo rủi ro đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng từ quy trình tín dụng, chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị tham gia quy trình tín dụng của NHTM; báo cáo của Kiểm toán nội bộ chính là một trong những căn cứ quan trọng giúp Ban điều hành, Hội đồng quản trị có đưa ra những quyết sách và phương hướng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chính vì vậy, cũng tương tự như hai vòng kiểm soát đầu, RRTD phát sinh do những nguyên nhân như đã được đề cập ở trên.
Sự phối hợp giữa ba vòng kiểm soát khi thực hiện quản trị RRTD: RRTD phát sinh chủ yếu trong quá trình tác nghiệp giữa các đơn vị thuộc ba vòng kiểm soát. Cụ thể đó là việc không tuân thủ đầy đủ quy trình nghiệp vụ về quản trị RRTD của NHTM, NHNN và các văn bản pháp luật hiện hành; không thực hiện hỗ trợ kịp thời hoặc hỗ trợ không hiệu quả, có hành động gây khó khăn cho bộ phận nghiệp vụ; có hành động cấu kết gây thiệt hại cho ngân hàng.
Như vậy, mặc dù các đơn vị thuộc ba vòng kiểm soát là khác nhau, tuy nhiên nguyên nhân phát sinh RRTD của cả ba vòng kiểm soát đều xuất phát từ những yếu tố liên quan đến kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, xu hướng phát triển của ngành, lạm phát…và một số yếu tố nội tại trong ngân hàng bao gồm: quy mô của ngân hàng, chính sách tín dụng, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, nguồn nhân lực của ngân hàng. Ngoài ra, RRTD cũng sẽ xuất hiện trong quá trình tác nghiệp, phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc ba vòng kiểm soát. Chính vì vậy, hiện nay các NHTM đều rất quan tâm đến việc xác định và kiểm soát được những nguyên nhân gây nên RRTD tại 03 vòng kiểm soát.