Bên cạnh đó, trong việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách pháp luật cần nắm bắt nhanh và kịp thời mọi sự phát triển của nền kinh tế
xã hội, cần phải thu thập ý kiến đầy đủ, khách quan từ
các cơ
quan ban
ngành, doanh nghiệp để đảm bảo việc thực thi được chính xác, hiệu quả, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế.
Hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý liên quan đến quyền chủ nợ về bảo đảm tiền vay nhằm giúp cho các ngân hàng thuận lợi hơn khi phải thực hiện các biện pháp xử lý tài sản để thu hồi nợ, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của danh mục cho vay của các ngân hàng thương mại.
Thúc đẩy thị
trường tài chính, và thị
trường tiền tệ
Có thể bạn quan tâm!
- Giải Pháp Hoàn Thiện Quản Trị Danh Mục Cho Vay Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam
- Phân Ngành Danh Mục Cho Vay Chi Tiết, Phù Hợp Với Hướng Dẫn Của Chính Phủ
- Tăng Cường Công Tác Giám Sát Thực Hiện Danh Mục Cho Vay
- Xây Dựng Và Vận Hành Hiệu Quả Hệ Thống Thông Tin Tín Dụng
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 28
- Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 29
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
trước hết là thị
trường liên ngân hàng nhằm xác định khuôn khổ hoạt động của các ngân
hàng, tạo thêm nhiều cơ hội đầu tư nhằm phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đa dạng hóa các công cụ tài chính nhằm giảm thiểu rủi ro danh mục cho vay trong hoạt động ngân hàng.
Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy cho thị trường mua bán nợ. Thực hiện tốt công tác mua bán nợ theo Thông tư 79/2011/TTBTC
và Thông tư
135/2015/TTBTC cũng như
Nghị
định số
17/2010/NĐCP và
Nghị định 62/2017/NĐCP về việc bán đấu giá tài sản. Hơn nữa, hoàn chỉnh các quy định pháp luật có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động quản lý tín dụng của ngân hàng như quy định về giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, quy định về cấp các giấy tờ sở hữu tài sản, quy định về các ngành kinh doanh, vốn là những vấn đề liên quan đến nhiều bộ, ngành khác nhau, có ảnh hưởng đến công tác quản trị danh mục cho vay. Chính phủ cần điều phối sự kết hợp với các bộ ngành có liên quan, cùng với NHNN để thống nhất, chia sẻ quan điểm về quản lý danh mục cho vay của các ngân hàng, cùng nhau phối kết hợp để giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá trình quản lý của ngân hàng.
3.3.1.2. Hoạch định chiến lược phát triển kinh tế cụ thể cho từng thời kỳ
Định hướng kinh tế trong từng thời kỳ của nhà nước thể hiện ở chính sách khuyến khích hay hạn chế một ngành kinh tế nhất định sẽ có tác động sâu sắc đến hoạt động của hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành đó. Định hướng kinh tế của Chính phủ giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở hoạt
động rõ ràng, chủ
động điều chỉnh phương án và kế
hoạch kinh doanh.
Ngoài ra, các chính sách liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các doanh nghiệp liên quan. Những quyết định, điều chỉnh trong định hướng
phát triển kinh tế
không chỉ
hỗ trợ
cho doanh nghiệp mà còn là cơ sở để
ngân hàng thương mại cơ cấu hợp lý danh mục cho vay tránh rủi ro phát
sinh. Như vậy, định hướng chính sách kinh tế vĩ mô của Chính Phủ trong cả
năm cần được công bố
ngay từ
đầu năm để
cho các ngân hàng và doanh
nghiệp được biết. Những dự kiến thay đổi cụ thể về chính sách ở từng thời điểm cụ thể trong năm chỉ nên công bố khi chắc chắn sẽ thực hiện. Cùng với các thông tin về quyết định chính sách, các thông tin kinh tế vĩ mô như
nhập siêu, dự
trữ
ngoại hối, cán cân thanh toán, ... phải được công khai,
minh bạch ở mức cần thiết để tránh ngân hàng và doanh nghiệp không bị bất ngờ và luôn chủ động có định hướng rõ ràng trong hoạt động kinh doanh.
3.3.1.3. Thúc đẩy xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số
Việc xây dựng nền tảng công nghệ phát triển Chính phủ
điện tử
tập
trung vào xây dựng trình Thủ tướng ban hành Khung Kiến trúc Chính phủ
điện tử Việt Nam (phiên bản 2.0) làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương ban hành kiến trúc chính phủ điện tử, chính quyền điện tử các bộ, ngành, địa
phương; phát triển nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia trên cơ sở
Trục liên thông văn bản quốc gia đã được văn phòng chính phủ xây dựng và
đưa vào vận hành; khẩn trương xây dựng, hoàn thiện các cơ sở dữ liệu quốc gia ưu tiên triển khai (như Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia,…). Bên cạnh đó xây dựng, hoàn thiện các hệ thống Chính
phủ
điện tử
nhằm tăng cường xử
lý văn bản, hồ
sơ công việc trên môi
trường mạng, đổi mới lề lối, phương thức làm việc, phục vụ người dân và doanh nghiệp. Đối với cung cấp dịch vụ công trực tuyến, Văn phòng chính phủ hiện đang xây dựng Cổng Dịch vụ công quốc gia kết nối, tích hợp với
Cổng dịch vụ
công, hệ
thống thông tin một cửa điện tử
cấp bộ, cấp tỉnh
tuân thủ nguyên tắc lấy người dùng làm trung tâm. Trước mắt, ưu tiên cung
cấp những dịch vụ công mà người dân, doanh nghiệp quan tâm như: Thu
tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, cấp đổi giấy phép lái xe, thông báo khuyến mại, thuế, đăng ký kinh doanh…
Với chính phủ
điện tử
và chính phủ
số, các NHTM sẽ
nhận được
những lợi ích to lớn, có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động quản trị danh mục cho vay của ngân hàng. Dự án chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số sẽ hoàn thành được các nhiệm vụ đặt ra như sau:
Thứ
được
nhất, Hoàn thiện phương pháp thống kê. Phương pháp thống kê
cải tiến theo hướng ứng dụng phương pháp thống kê hiện đại, phù hợp với các
tiêu chuẩn, thông lệ dung:
thống kê quốc tế
và thực tiễn Việt nam với các nội
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu quốc gia theo hướng đồng bộ, phản ánh được yêu cầu cơ bản về thông tin thống kê của các đối tượng sử dụng đủ để so sánh với hệ thống chỉ tiêu thống kê của các nước trong khu vực và thế giới, trong đó chú trọng các chỉ tiêu kinh tế và xã hội tổng hợp. Chuẩn hóa hệ
thống các bảng phân loại, danh mục theo hướng tuân thủ tính tương thích
với các bảng danh mục chuẩn quốc tế và được mở rộng theo thực tiễn và yêu cầu của Việt Nam.
Thứ hai, Hoàn thiện hệ thống thu thập số liệu thống kê. Cải tiến chế độ báo cáo thống kê doanh nghiệp theo hướng giảm báo cáo định kỳ, tăng
cường thu thập thông tin thông qua việc tổ chức điều tra phù hợp với từng
loại hình doanh nghiệp bảo đảm các thông tin của báo cáo thống kê phản ánh đúng, đầy đủ về thực trạng doanh nghiệp, cung cấp được các thông tin cần thiết để tính và xác định các chỉ tiêu về kết quả sản xuất, kinh doanh
của các ngành kinh tế nghiệp.
đáp ứng được yêu cầu tổng hợp thông tin về doanh
Thứ ba, Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để phát triển thống kê Trên cơ sở chuẩn hóa các sản phẩm thống kê, các bảng phân loại, danh mục, các biểu mẫu báo cáo, điều tra, xây dựng và phát triển các phần mềm ứng dụng chuyên dùng cho từng chuyên ngành thống kê nhằm tự động hóa các khâu xử lý, tính toán phân tích thống kê. Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thống kê kinh tế xã hội bao gồm: các cơ sở
dữ liệu vi mô, các cơ
sở dữ liệu vĩ mô và các cơ
sở dữ
liệu về hệ thống
bảng biểu phân loại, các bảng danh mục, hệ
thống chỉ
tiêu thống kê và
phương pháp tính. Cơ sở dữ liệu do ngành nào thu thập, ngành đó xây dựng
và quản lý. Việc truy cập để
có thông tin vĩ mô và đặc điểm ngành
nghề
trong nền kinh tế được quản lý tập trung như vậy giúp cho các ngân hàng
thương mại nhanh chóng tiếp cận và quản kip thời.
trị danh mục cho vay của mình
3.3.1.4. Hạn chế tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động cho vay của NHTM
Quản trị danh mục cho vay của các ngân hàng thương mại được thực
hiện theo phương pháp chủ động một yêu cầu đặt ra phải hoàn toàn xuất
phát từ chính yếu tố thị trường và bản thân ngân hàng trên cơ sở khẩu vị rủi
ro của mình. Việc xây dựng danh mục quản trị và điều chỉnh danh mục
nhằm hạn chế rủi ro danh mục phụ thuộc vào báo cáo định kỳ, tuy nhiên khi
thực hiện xây dựng danh mục cho vay có sự can thiệp sâu vào hoạt động tự chủ của ngân hàng như cho vay theo chỉ định, hoặc can thiệp hành chính đối với các mức lãi suất cho vay sẽ làm giảm hiệu quả của quá trình quản trị danh mục cho vay của mình. Vì vậy các ngân hàng cần được tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng, khách quan có tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của ngân hàng tránh những can thiệp sâu và mang tính hành chính vào hoạt động cho vay.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý đáp ứng yêu cầu về quản trị danh mục cho vay
Thực tế những năm qua cho thấy, một hành lang pháp lý cho hoạt động
quản trị danh mục cho vay của các ngân hàng thương mại là hết sức cần
thiết. Các ngân hàng thương mại, nhất là những ngân hàng sở hữu ngoài nhà nước, thường có xu hướng tìm kiếm lợi nhuận càng cao càng tốt, nên việc
chạy theo nhu cầu thị
trường rất dễ
xảy ra.
Ở góc độ
quản lý nhà nước
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, ngân hàng Nhà nước cần phải đưa ra các quy định để hạn chế bớt sự nóng vội của các ngân hàng trong việc tìm kiếm lợi nhuận, ổn định tình hình chung. Mặc dù thời kỳ qua, ngân hàng Nhà nước đã có nhiều nỗ lực, đưa ra một số văn bản nhằm giới hạn hoạt động cho vay đối với khách hàng theo như Thông tư 39/2016/TTNHNN, tuy nhiên nội
dung còn chưa đi sâu chi tiết về giới hạn cho vay cụ thể với từng ngành,
từng đối tượng khách hàng …trên danh mục cho vay của ngân hàng.Vì vậy,
thời gian tới, để hướng dẫn cho các ngân hàng thương mại thực hiện đa
dạng hóa, tránh rủi ro tập trung tiềm ẩn trên danh mục, thiết nghĩ ngân hàng Nhà nước cần xây dựng các quy định chi tiết hơn, về mức đa dạng hóa danh mục, về giới hạn an toàn cho phép (tính trên dư nợ, quy mô vốn tự có của từng ngân hàng). Trường hợp phát hiện các ngân hàng vi phạm phải có chế tài phạt thích hợp. Đó là biện pháp cần thiết để đưa hoạt động quản trị danh
mục cho vay vào khuôn khổ, nhất là trong giai đoạn kỹ năng quản trị của các ngân hàng còn yếu kém.
Năm 2016, NHNN đã ban hành thông tư 41/2016/TTNHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam. Tiếp theo, trong năm 2018, NHNN đã ban hành thông tư 13/2018/TT
NHNN hướng dẫn về
hệ thống kiểm soát nội bộ
của NHTM, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài. Hai thông tư này đã thể hiện nỗ lực của NHNN trong việc chuẩn hóa hệ thống NHTM Việt Nam theo định hướng các tiêu chí của Basel II. Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp quy nào đề cập chi tiết đến việc quản trị danh mục cho vay, các tiêu chí cần đạt được với danh mục cho vay của một NHTM. Do đó, NHNN cần sớm ban hành thông tư hướng dẫn các yêu cầu về quản lý rủi ro danh mục cho vay đối với các NHTM.
3.3.2.2. Hoàn thiện các quy định về giám sát ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế
Việc ban hành Thông tư
08/2017/TTNHNN và Sổ
tay giám sát ngân
hàng là một bước tiến lớn trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong
hoạt động giám sát ngân hàng. Tuy nhiên, cần nhìn nhận vẫn còn nhiều điểm trong khuôn khổ pháp lý và các quy định vẫn chưa phù hợp và không
theo kịp với các chuẩn mực quốc tế, nhất là trong bối cảnh kinh tế Việt
Nam ngày càng được đa dạng hóa và hội nhập sâu hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế đòi hỏi phải có những thay đổi, cải tiến trong khuôn khổ pháp lý cho thanh tra, giám sát để đảm bảo quản lý và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
của hệ
thống các TCTD. NHNN có thể
hoàn thiện hơn công tác thanh tra
giám sát ngân hàng dựa trên những đề xuất sau:
Hoàn thiện cơ sở pháp lý về giám sát của cơ quan thanh tra giám sát ngân
hàng (CQTTGSNH) đối với các NHTM ở Việt Nam, trong đó tập trung
nghiên cứu, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành: Thông tư quy
định Quy trình thanh tra về chuyên ngành ngân hàng; Thông tư quy định Quy
trình giám sát rủi ro tài chính đối với NHTM riêng lẻ; Thông tư quy định Quy trình đánh giá các NHTM theo tiêu chuẩn CAMELS đối với NHTM
riêng lẻ; Thông tư
quy định Quy trình đánh giá mức độ
rủi ro, năng lực
quản lý rủi ro, tình hình tài chính và hoạt động của NHTM…Bên cạnh đó, cần ban hành và thường xuyên cập nhật các sổ tay thanh tra và sổ tay giám sát thành cẩm nang thanh tra để hướng dẫn Thanh tra viên, cán bộ, công chức thanh tra có thể thanh tra, giám sát được các nghiệp vụ ngân hàng.
Hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát của Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng đối với các TCTD: Song song với việc hoàn thiện khuôn khổ thể chế, cần nâng cấp hạ tầng cơ sở công nghệ để nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát theo hướng tiếp cận
trình độ
của khu vực và quốc tế; trong đó xây dựng hạ
tầng công nghệ
thông tin đồng bộ
và tiên tiến để
phục vụ
cho hiện đại hóa công nghệ
thanh tra, giám sát ngân hàng, bao gồm phần cứng, phần mềm ứng dụng và cán bộ công nghệ thông tin. Đây là cơ sở và nền tảng cho việc áp dụng các công cụ định lượng trong hoạt động giám sát ngân hàng.
Xây dựng và đào tạo cán bộ, công chức giám sát ngân hàng chuyên sâu: Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức giám sát là giải pháp mang tính nền tảng cho việc nâng cao hiệu quả của công tác giám sát các TCTD. Nó được thực hiện thông qua công tác cán bộ, công chức như tuyển
dụng, sắp xếp cán bộ, công chức, chính sách đãi ngộ và các biện pháp
khuyến khích khác, trong đó đặc biệt coi trọng đào tạo các kiến thức, kỹ năng về nghiệp vụ, phương pháp giám sát ngân hàng mới theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Tăng cường trao đổi thông tin giữa CQTTGSNH với các cơ quan giám sát
tài chính trong và ngoài nước, trong đó tăng cường hợp tác quốc tế song
phương, đa phương về giám sát ngân hàng; xây dựng cơ chế trao đổi thông tin giám sát thị trường tài chính trực tiếp giữa NHNN và Bộ Tài chính; giữa CQTTGSNH và cơ quan Thanh tra, giám sát tài chính; tăng cường sự hiểu
biết, trao đổi kinh nghiệm và đối thoại chính sách giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với các cơ quan giám sát tài chính trong nước thông qua hình thức tổ chức các diễn đàn, hội thảo, hội nghị chuyên đề;…
3.3.2.3. Xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động trao đổi, mua bán các công cụ phái sinh tín dụng, chứng khoán hóa các khoản nợ và bảo lãnh khoản vay
Đối với các nước trên thế giới, việc sử dụng các công cụ quyền chọn,
các công cụ
của nghiệp vụ
phái sinh, các hoạt động mua bán nợ, chứng
khoán hoá các khoản nợ hay các dịch vụ của công ty bảo lãnh, Ngân hàng
bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh cũng như
trong quản lý rủi ro
ở các
Ngân hàng, các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, các hoạt động này là rất mới và hầu hết là chưa được áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng. NHNN với chức năng là hướng dẫn và quản lý các ngân hàng trong quá trình
hoạt động, cũng phải
tích cực nghiên cứu các mô hình
ở nước ngoài, lựa
chọn các mô hình phù hợp đối với Việt Nam có những hướng dẫn chi tiết và
xây dựng cơ sở
pháp lý cho
sự ra đời của các công ty kinh doanh quyền
chọn, các công ty mua bán nợ, các công ty hay Ngân hàng Bảo lãnh cho
vay...nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực của xã hội, tăng cường sự liên kết
trong sử
dụng các hoạt động chuyển giao tài
sản, giúp các ngân hàng đa
dạng hoá trong các nghiệp vụ quản lý danh mục cho vay.
Áp dụng kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế
giới trong
việc cho ra đời và phát triển các Ngân hàng Bảo lãnh vay vốn, hay Quỹ tín dụng tương hỗ dùng để tín chấp cho việc vay vốn của các thành viên được thành lập trên cơ sở các hiệp hộingành nghề hay quỹ bảo hiểm góp chung của Nhà nước nhằm bảo lãnh cho các công ty nhỏ và vừa có ý tưởng kinh doanh hay, có phương án sản xuất, dự án đầu tư tốt nhưng không có tiềm lực về tài chính để vay vốn ở các ngân hàng, một mặt tạo được sự liên kết giữa các ngành nghề, các hoạt động của nền kinh tế, mặt khác tạo được môi trường hoạt động ổn định. Đối với các Ngân hàng Bảo lãnh, Quỹ tương hỗ