Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 21


hàng), dẫn đến khách hàng giả nhiều lần để rút vốn ngân hàng.

mạo, sửa chữa nâng giá trị

hóa đơn lên

Về kiểm tra sử dụng vốn vay, một số hồ sơ tín dụng các chi nhánh thực hiện kiểm tra không đầy đủ theo quy định; nội dung kiểm tra chung chung, sơ sài, chưa đầy đủ, chưa kiểm tra cụ thể về sổ sách kế toán, chưa đề cập

các thông tin về tình hình kinh doanh, đánh giá dòng tiền, dẫn đến ngân

hàng không kiểm soát được việc sử dụng vôn vay và khả năng trả nợ của khách hàng.

Về tài sản đảm bảo, một số hồ sơ tín dụng nhận thế chấp tài sản đảm

bảo (TSĐB) không đủ điều kiện theo quy định; việc định giá lại TSĐB

chưa theo quy định; hợp đồng thế chấp tài sản không có công chứng…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.

Về phân loại nợ, có một số hồ sơ tín dụng thực hiện xếp hạng khách

hàng, phân loại nợ

Quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 21

và cơ

cấu nợ

chưa đúng quy định tại Quyết định

780/QĐ­NHNN và Công văn 2506/NHNN­CSTT.

Về những khuyết điểm vi phạm trong hoạt động mua bán nợ, kết luận của Thanh tra Chính phủ nêu rõ, Vietcombank ban hành các Quyết định số 510 và 217 về hướng dẫn mua bán nợ không rõ ràng, không cụ thể dẫn đến

sự nhầm lẫn giữa các bước. Bên cạnh đó, việc VAMC ủy quyền cho

Vietcombank bán các khoản nợ theo hình thức thỏa thuận trực tiếp với

khách hàng khi chưa thực hiện bán nợ theo hình thức đấu giá là chưa đúng với quy định.

Ba là, Mô hình đo lường rủi ro của toàn bộ được áp dụng tại ngân hàng.

danh mục cho vay chưa

Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chấm điểm khách hàng là rất quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng, là căn cứ để cán bộ tín

dụng thẩm định, lập hồ

sơ xét duyệt khoản cho vay. Tuy nhiên, hệ

thống

xếp hạng tín dụng không thể đưa ra ước lượng tổn thất do rủi ro của danh mục cho vay đối với ngân hàng. Các mô hình đo lường rủi ro của các khoản


vay đơn lẻ mà Vietcombank mới xây dựng thành công vẫn mang tính chất

phục vụ hoạt động thẩm định để tiến hành nghiệp vụ cho vay. Vietcombank chưa có mô hình đo lường rủi ro của toàn bộ danh mục cho vay thì ngân hàng sẽ luôn ở trạng thái bị động khi quản trị danh mục cho vay, chỉ có thể tìm

biện pháp chống đỡ khi tổn thất đã xảy ra mà không được cảnh báo và

phòng ngừa rủi ro sớm.

Bốn

là, Các công cụ

dùng để

điều chỉnh danh mục cho vay của

Vietcombank còn hạn chế, chỉ

mới thực hiện công cụ

mua bán nợ

với

VAMC nhưng chưa thực sự đúng bản chất của hoạt động điều chỉnh danh mục cho vay.

Các công cụ điều chỉnh danh mục cho vay phổ biến trên thế giới như bảo lãnh khoản vay, cho vay hợp vốn, công cụ phái sinh tín dụng hay chứng khoán hóa khoản nợ chưa được áp dụng tại Vietcombank. Hay nói cách khác, ngân hàng thiếu tầm nhìn chiến lược trong quản trị danh mục cho, dẫn tới

hiện trạng như

vậy. Việc Viecombank bán nợ

cho VAMC trong ban năm

2014­2016 đã làm danh mục cho vay của ngân hàng có sự điều chỉnh nhẹ, tỷ lệ nợ xấu có giảm nhưng không đáng kể do phần nợ xấu bán cho VAMC

không nhiều. Thêm vào đó, sau khi bán nợ cho VAMC thì Vietcombank lại

tiến hành mua lại nợ, và xử lý bằng quỹ dự phòng trái phiếu VAMC. Như

vậy, thực chất việc mua bán nợ

của

Vietcombank không đúng mục tiêu là

điều chỉnh danh mục cho vay mà chỉ là xử lý nợ xấu.

Năm là, Vietcombank thực hiện nội dung quản trị danh mục cho vay về phân ngành trong danh mục cho vay chưa tốt.

Với hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, theo Quyết định số 16/2007/QĐ­NHNN do NHNN Việt Nam ban hành chế độ báo cáo tài chính

đối với các TCTD, có hiệu lực kể từ ngày 9/7/2007 thì danh mục cho vay

khách hàng của ngân hàng nêu trong phần thuyết minh báo cáo tài chính sẽ được quy định về tiêu chuẩn phân ngành của Tổng cục Thống kê, tức phải


theo bộ

tiêu chuẩn quy định phân ngành hiện hành theo

Quyết định số

10/2007/QĐ­TTg và Quyết định số

27/2018/QĐ­TTg của Thủ

tướng Chính

phủ Chính phủ (với 21 nhóm ngành cấp 1). Quy định là vậy, tuy nhiên trong quá trình triển khai tại các ngân hàng thương mại nói chung và Vietcombank nói riêng và đã cho thấy một số vướng mắc, hạn chế. việc phân ngành và công bố báo cáo dư nợ cho vay theo ngành của các ngân hàng chưa cho thấy sự đồng nhất, mặc dù theo quy định phải triển khai phân ngành theo khung chuẩn là hệ thống ngành kinh tế Chính phủ ban hành. Hình thức phân ngành của Vietcombank chỉ chia danh mục cho vay ra 8 ngành và 1 nhóm các ngành

khác. Như vậy, việc phân ngành trong danh mục cho vay hiện tại của

Vietcombank hiện tại chưa đưa ra được phù hợp với tiêu chuẩn của NHNN. Thực tế này không chỉ dẫn đến những bất cập trong thực trạng phân bổ và quản trị danh mục cho vay của ngân hàng, mà còn ảnh hưởng đến công tác thống kê của NHNN và còn khiến cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư rất khó để so sánh danh mục cho vay, khẩu vị rủi ro của ngân hàng.

Sáu là, Nhân lực thực hiện quản trị chưa có nhiều kinh nghiệm.

danh mục cho vay còn mỏng và

Hiện tại, quản trị danh mục cho vay mới chỉ là một bộ phận của Phòng Chính sách tín dụng của ngân hàng. Với số lượng nhân lực ít ỏi, chưa được đào tạo đầy đủ về quản trị danh mục cho vay. Cán bộ chưa nhận thức đầy đủ và chưa nhìn nhận được tầm quan trọng của công tác quản trị danh mục cho vay, từ đó dẫn đến vị trí và vai trò của công tác quản trị nói chung còn nhiều hạn chế, năng lực và trình độ của các cán bộ thực hiện công tác quản trị danh mục cho vay còn chưa đủ đáp ứng yêu cầu của nghiệp vụ này. Do

sự thiếu hụt đó, hiệu quả

quản trị

danh mục cho vay của ngân hàng chưa

cao, việc đào tạo cho cán bộ về nghiệp vụ quản trị danh mục cho vay vẫn chưa được thực hiện toàn diện.

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế


2.4.3.1. Nguyên nhân chủ quan


Một

là, Ban lãnh đạo

Vietcombank chưa

nhận

thức

đầy

đủ về tầm

quan trọng NHTM.

cũng như sự cần thiết của

quản trị

danh

mục

cho vay đối với

Mặc dù cho vay là hoạt động kinh doanh chủ lực của ngân hàng, nhưng để xem xét các khoản cho vay như những khoản đầu tư sinh lời thì không phải là quan điểm được nhiều nhà lãnh đạo đồng tình. Bên cạnh đó, việc quản trị danh mục cho vay của ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào sự chỉ đạo từ phía NHNN nên không đem lại kết quả tốt. Trên thực tế sự can thiệp

của

NHNN nhiều khi

chậm trễ,

không sát kịp

với

diễn

biến đang

xảy ra.

Trong bối cảnh đó, nếu Vietcombank chủ động trong chiến lược của mình thì sẽ tránh được rủi ro và tổn thất. Trên thực tế, việc các nhà quản trị ngân hàng nhận thức chưa đúng mức về sự cần thiết của quản trị danh mục cho

vay còn thể

hiện

ở chỗ giao khoán chỉ tiêu tăng dư nợ cho nhân viên, các

phòng giao dịch,

chi nhánh, tức là chỉ chú trọng

tăng quy mô tín dụng,

không quan tâm đến

cơ cấu

danh mục cho vay. Điều

này dẫn đến không

kiểm soát được

mức độ

rủi

ro trên danh mục đang

hình thành và một khi

những rủi ro tiềm ẩn này trở thành tổn thất thực sự thì hậu quả là ngân hàng phải hoàn toàn hứng chịu.

Hai là, Cơ sở lý luận và các mô hình thực tế về quản trị danh mục cho vay vẫn là một vấn đề mới mẻ tại Vietcombank nói riêng và nhiều NHTM tại Việt Nam nói chung.

Hoạt động quản trị danh mục cho vay tại Vietcombank vẫn mang tính

chất đơn lẻ, đánh giá theo từng khoản vay hoặc theo từng khách hàng. Việc đánh giá cả danh mục cho vay đòi hỏi ngân hàng cần phải đầu tư lớn cho việc nghiên cứu các cách thức thực hiện và bồi dưỡng nhân sự, cũng như phát triển hạ tầng công nghệ thông tin hỗ trợ. Do đó, Vietcombank chưa xây dựng được một danh mục cho vay rõ ràng, chưa đưa ra đánh giá đầy đủ và


cụ thể về ngành, lĩnh vực và nền kinh tế thường xuyên để đưa ra cấu trúc

danh mục cho vay với các chính sách phù hợp với khẩu vị rủi ro của hàng.

ngân

Ba là, Hoạt động phân tích, đánh giá tình hình tài chính của khách hàng, dự án vay vốn chưa được chuyên sâu, chất lượng không cao; phân tích khách hàng, tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn, thẩm định dự án còn sơ sài; thực hiện kiểm tra, giám sát vốn vay, tài sản đảm bảo nợ vay không thường xuyên và chưa hiệu quả.

Có thể kể đến đầu tiên là công tác phân tích thông tin và dự báo tại

Vietcombank còn yếu kém dẫn đến khó khăn trong việc chủ động thiết kế

danh mục

cho vay kế hoạch. Phân tích thông tin yếu

dẫn

đến

dự báo

kém chuẩn

xác là những điểm hạn chế gần như cố hữu của nền

kinh tế

Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế bao cấp sang kinh

tế mở có tính hội nhập. Thực tế đó

đã gây cản

trở cho việc thiết

kế một

danh mục cho vay hiệu

quả ngay từ khi hoạch định

chiến

lược

cho vay.

Cũng do công tác dự báo chưa tốt,

nên nếu

xây dựng một danh mục cho

vay với các tỷ trọng quá cụ thể sẽ dẫn đến phải liên tục điều chỉnh sau này. Vì vậy ngân hàng thường chỉ định hướng chung chung. Kế tiếp là công tác thu thập thông tin của ngân hàng vẫn còn nghèo nàn, chưa thống nhất. Ngân hàng mới chỉ chủ yếu dừng lại ở việc thu thập thông tin từ phía khách hàng mà chưa chú trọng thu thập thông tin đa chiều từ nhiều kênh khác. Điều này

dẫn

đến

kết

quả chấm

điểm của hệ thống

xếp hạng

tín dụng

nhiều

khi

không chính xác. Trong khi đây là một công cụ quan trọng trong việc quản trị danh mục cho vay.

Bn là, Hoạt động cho vay của Vietcombank phân bố rộng khắp các vùng miền của đất nước nên công tác quản lý tập trung gặp nhiều khó khăn và chịu ảnh hưởng gián tiếp từ các điều kiện tự nhiên.


Mạng lưới chi nhánh của Vietcombank trải dài khắp đất nước, phục

vụ với

số lượng

lớn

và đa dạng các đối

tượng khách

hàng. Trình độ phát

triển

kinh tế giữa các khu vực lại

có sự chênh lệch

lớn

nên không thể áp

dụng cùng một chính sách cho tất cả các khu vực. Do đó, việc quản lý tập trung danh mục trên toàn hệ thống gặp rất nhiều khó khăn.

Năm là, Trình độ

chuyên môn của đội ngũ cán bộ

quản

trị danh mục

cho vay cũng như

cán bộ

trực tiếp cho vay còn nhiều bất cập, lúng túng

trong công tác xây dựng và hoạch định kế hoạch, phương án điều chỉnh danh mục cho vay, việc dánh giá rút ra bài học kinh nghiệm sau mỗi lần xử lý rủi ro danh mục cho vay còn ít.

Tuy ngân hàng đã hình thành bộ phận quản trị danh mục cho vay nhưng hoạt động chưa bài bản và không đem lại hiệu quả cao. Thêm vào đó, quản trị danh mục cho vay là một lĩnh vực còn mới mẻ, chưa hề được đề cập đến nhiều trong chương trình học của các trường đại học, cao đẳng khối ngành kinh tế. Vì vậy, để có được các cán bộ ngân hàng có kiến thức chuyên môn vững vàng về lĩnh vực quản trị danh mục cho vay thì ngân hàng sẽ phải tự đào tạo, hoặc đầu tư kinh phí để cử các nhân viên đi tham gia các khóa học về quản trị danh mục cho vay của các trung tâm đào tạo về tài chính – ngân hàng của các nước phát triển trên thế giới.

Sáu là, Công nghệ để thực ra giám sát thực hiện danh mục cho vay

còn chưa được đầu tư

và phát triển đầy đủ. Ngân hàng chưa có hệ

thống

thông tin quản lý (MIS) để có thể cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát nhanh chóng và nhạy bén. Hệ thống MIS khá phổ biến trên thế giới và được sử dụng nhiều trong hoạt động quản trị danh mục cho vay hiện đại.

Hệ thống phần cứng, hệ thống cơ sở dữ liệu để tiến hành được các phân

tích tài chính vĩ mô, cập nhật thông tin để phân tích, xác định rủi ro và đưa ra những cảnh báo cho khu vực tài chính một cách nhanh chóng và chính xác.

2.4.3.2. Nguyên nhân khách quan


Thnht, Thị trường tín dụng của Việt Nam chưa phát triển.


Ở các nước phát triển với nền tài chính hiện đại, các công cụ điều

chỉnh danh mục cho vay phi thị trường và thị trường hết sức phát triển. Hoạt động bảo lãnh vay vốn, cho vay hợp vốn, chứng khoán hóa khoản vay, phái sinh tín dụng hay mua bán nợ đều khá phổ biến. Đặc biệt, các công cụ này đều chịu sự điều tiết và quản lý của nhà nước, có những điều khoản luật

hướng dẫn cụ

thể. Chính tính sẵn có của các công cụ

trên làm cho hoạt

động điều chỉnh danh mục cho vay của các NHTM thuộc các quốc gia phát triển phát huy tác dụng là dự phòng và giảm thiểu rủi ro cho danh mục cho vay. Ở Việt Nam, các nghiệp vụ này còn quá mới mẻ, mới dừng lại trên lý thuyết và hầu như không có bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn và điều chỉnh. Vì thế, các NHTM tại Việt Nam nói chung và

Vietcombank nói riêng vẫn chưa có cơ động quản trị danh mục cho vay.

hội để sử

dụng chúng trong hoạt

Thứ

hai, Hệ

thống thông tin tín dụng cung cấp cho các NHTM chưa

đáp ứng được nhu cầu của quá trình quản trị danh mục cho vay.

Thông tin về tín dụng cho các NHTM được cung cấp bởi Trung tâm

thông tin tín dụng CIC. Mặc dù CIC đã thành lập được 20 năm, đạt được những kết quả nhất định, nhưng song song với nó còn một số hạn chế gây ảnh hưởng đến việc cung cấp thông tin tín dụng cho hệ thống NHTM: (i) các chỉ tiêu sử dụng để kiểm định trong mô hình xếp hạng tín dụng của CIC mang tính chất lịch sử mà chưa có các chỉ tiêu dự báo cho tương lai; (ii) trong trường hợp khách hàng bị nghi ngờ, sai sót, thì việc điều chỉnh dữ liệu rất mất thời gian. CIC cũng chưa có luồng thông tin phản hồi lại cho tổ chức tín dụng nếu khách hàng bị trả lời chậm; (iii) thông tin dữ liệu đầu vào cho hệ thống chấm điểm của CIC lấy từ nhiều nguồn, chủ yếu là thông tin về dư nợ, thông tin về tài sản và thông tin định danh khách hàng nhưng nhiều thông tin gửi từ các ngân hàng thương mại về CIC chậm và chưa được cập nhật làm ảnh hưởng tới việc chấm điểm và xếp hạng.


Thứ

ba,

Việc quy hoạch, phân bổ

đầu tư

nguồn lực xã hội tại Việt

Nam còn chưa hợp lý, thiếu tính chiến lược, gây ra khủng hoảng thừa về đầu tư ở một số ngành.

Trong thị trường tự do cạnh tranh, quy luật khan hiếm, quy luật cung – cầu là cơ sở để các nhà kinh doanh xác định việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, các hãng sẽ đầu tư vào những ngành mà xã hội cần và rời bỏ những ngành không tạo ra nhiều lợi nhuận cho họ, việc chuyển vốn diễn ra liên tục giữa ngành này với ngành khác. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hiện tượng đầu tư một cách tự phát, hoàn toàn không có sự quy hoạch hợp lý hay hợp tác giữa các nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ, thiếu sự phân công lao động và chuyên môn hóa lao động. Thực trạng này dẫn đến sự gia tăng quá nhanh vốn đầu tư vào một số ngành mà không đảm bảo được sự cân bằng cho nền kinh tế. Điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến danh mục cho vay của NHTM khi mà những ngành được đầu tư ồ ạt diễn ra đổ vỡ.

Thtư, Ngành ngân hàng của Việt Nam hiện nay có sự cạnh tranh gay

gắt.

Hiện nay, Việt Nam có khoảng gần một trăm ngân hàng thuộc các hình

thức khác nhau và hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân. Điều này dẫn đến việc thị phần cung cấp các khoản vay trong nước bị chia nhỏ, mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng cao. Các ngân hàng phải cạnh tranh với

nhau về lãi suất, các hình thức sản phẩm cho vay, điều này thúc đẩy các

ngân hàng phải hoàn thiện danh mục cho vay. Do vậy, việc các ngân hàng cạnh tranh cấp tín dụng cho các khách hàng tốt, có mức xếp hạng tín dụng cao và có lịch sự trả nợ đều đặn ngày càng khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh này

cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc

Vietcombank chưa thể

hoàn toàn

chủ

động lựa chọn khách hàng tốt để

cải thiện chất lượng danh mục cho

vay của mình.

Xem tất cả 233 trang.

Ngày đăng: 01/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí