thực hiện chức năng chủ đầu tư và đại diện chủ đầu tư các dự án theo ngành, lĩnh vực cụ thể; Chủ đầu tư được giao toàn quyền trong quá trình thực hiện đầu tư công tư khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, thẩm định thiết kế kỹ thuật thi công, phê duyệt dự toán và tổng dự toán công trình, từ đó chất lượng quản lý dự án đang ngày được nâng cao, tạo nên sự chuyên nghiệp trong đầu tư công.
2.3.1.2 Tổ chức thực hiện vốn đầu tư công
Kết quả đầu tư đã góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016- 2020, cụ thể 75 dự án chuyển tiếp đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng và cơ bản góp phần hoàn thiện hạ tầng kinh tế, xã hội của huyện từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của huyện và nhu cầu của người dân. Trong đó: 11 dự án lĩnh vực giáo dục và đào tạo; 41 dự án lĩnh vực giao thông; 07 dựán lĩnh vực nông nghiệp; 02 dự án lĩnh vực trụ sở; 08 dựán lĩnh vực văn hóa; 02 dự án lĩnh vực khác; 04 dự án thuộc lĩnh vực HTKT khu đấu giá;
2.3.1.3 Công tác quyết toán vốn Đầu tư công
Việc lập, thẩm định và phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành được thực hiện theo quy định.
Những năm vừa qua, huyện Quốc Oai đã thực hiện công tác quyết toán vốn đầu tư công theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung quyết toán các dự án hoàn thành theo quy định và thông tư hướng dẫn.
Công tác quyết toán vốn được thực hiện dưới hai hình thức: quyết toán theo niên độ ngân sách và quyết toán dự án/công trình hoàn thành.
Chất lượng hồ sơ báo cáo quyết toán của các chủ đầu tư cơ bản đảm bảo, công tác thẩm tra được thực hiện theo đúng quy định. Giai đoạn từ năm 2017-2019 tổng giá trị dự toán được phê duyệt của các công trình 1.898,777 Tỷ đồng; giá trị nghiệm thu và đề nghị quyết toán 1.799,843Tỷ
Có thể bạn quan tâm!
- Sơ Đồ Bộ Máy Quản Lý Của Phòng Tài Chính - Kế Hoạch
- Cơ Cấu Nguồn Vốn Đtxd Cơ Bản Từ Nguồn Nsnn Của Huyện Giai Đoạn 2017 -2020
- Kết Quả Thực Hiện Đầu Tư Xây Dựng Cơ Bản Từ Nguồn Nsnn Theo Lĩnh Vực Giai Đoạn 2017-2019
- Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Quản Lý Vốn Đầu Tư Công Của Huyện Quốc Oai:
- Quản lý vốn đầu tư công trên địa bàn huyện Quốc Oai, Hà Nội - 12
- Quản lý vốn đầu tư công trên địa bàn huyện Quốc Oai, Hà Nội - 13
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
đồng; giá trị quyết toán được phê duyệt 1.767,586 tỷ đồng, giảm 32,257 tỷ đồng. Về cơ bản các phòng ban chuyên môn của huyện đã chấp hành đúng quy định trong công tác quyết toán.
2.3.1.4 Công tác thanh tra quản lý vốn đầu tư công
Trong những năm qua, cơ quan thanh tra của huyện, thanh tra cấp sở và kiểm toán nhà nước đã thực hiện một số cuộc kiểm tra, thanh tra đã phát hiện ra những sai phạm trong quản lý đầu tư công như lập quyết toán khống, lập dự án chưa sát thực tế, thi công không đúng với thiết kế dự toán được duyệt, sử dụng vật liệu không đúng chủng loại như thiết kế dự toán, hồ sơ dự thầu được duyệt, lập hồ sơ nghiệm thu còn sơ sài, gây lãng phí trong đầu tư công… Điều này góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng công trình xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện hạn chế tham nhũng, lãng phí nguồn vốn ngân sách huyện.
2.3.2. Hạn chế:
Mặc dù trong những năm gần đây công tác quản lý nhà nước về đầu tư công nói chung và công tác quản lý vốn đầu tư công từ nguồn NSNN của huyện Quốc Oai nói riêng, đã có tiến bộ và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác quản lý vốn đầu tư công từ NSNN của huyện Quốc Oai còn nhiều hạn chế bất cập, đó là:
2.3.2.1. Công tác lập kế hoạch vốn
Kế hoạch phân bổ vốn còn mang tình ngắn hạn, một số dự án đầu tư, quyết định đầu tư công thoát ly nguồn vốn, cơ cấu phân bổ vốn chưa hợp lý; kế hoạch vốn đầu tư cho các dự án còn dàn trải và kéo dài, không đảm bảo thời hạn để hoàn thành dự án theo đúng tiến độ, dẫn tới tình trang dự án thi công kéo dài, không đảm bảo tiến độ theo quy định; công trình chậm đưa vào khai thác sử dụng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Đối với nhiều dự án, việc kéo dài thời gian thi công đồng nghĩa với việc tăng chi phí cho dự án do trượt giá, do bổ sung chi phí nhân công, máy thi công theo mức tăng lương hàng năm.
Thông qua việc phân bổ cơ cấu vốn đầu tư trong một số lĩnh vực còn bất cập chưa bám sát với nhu cầu thực tế. Trong lĩnh vực kinh tế ngân sách huyện chủ yếu tập trung cho hệ thống giao thông và phát triển nông nghiệp mà phần lớn là đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi (chiếm gần 80% vốn đầu tư). Việc đầu tư xây dựng những công trình phục vụ cho việcônghiên cứu khoa học, công nghệ chưa được quan tâm; chưa thật sự có đầu tư một cách thỏa đáng cho đối với những xã nghèo trên địa bàn huyện. Việc phân bổ nguồn vốn đầu tư công từ nguồn NSNN của huyện còn mang tình chất manh mún.
Trong quá trình tổ chức thực hiện do nguồn ngân sách trên địa bàn thấp, không ổn định dẫn đến việc xây dựng kế hoạch thu chưa sát thực tế. Hàng năm UBND huyện thường xuyên điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công dẫn đến việc các chủ đầu tư không chủ động được nguồn vốn ngay từ đầu năm mà vẫn phải chông chờ kế hoạch bổ sung.
2.3.2.2. Tổ chức thực hiện vốn đầu tư công
+ Chất lượng ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư.
+ Tình trạng phổ biến các dự án chậm tiến độ phải kéo dài làm tăng phí vốn đầu tư như chênh lệch giá nguyên vật liệu, chi phí nhân công.
+ Trong công tác GPMB sự đồng thuận của nhân dân chưa cao, ảnh hưởng đến tiến độ thự hiện một số dự án. Công tác tuyên truyền vận động của hệ thống chính trị chưa sâu, chưa thường xuyên.
+ Mặt khác, thất thoát, lãng phí vốn đầu tư trong khâu tổ chức thực hiện dự án đầu tư.
2.3.2.3. Công tác quyết toán vốn
Tình trạng chậm quyết toán vốn đầu tư công vẫn diễn ra. Nhiều dự án đã đưa vào khai thác, sử dụng nhiều năm sau mới phê duyệt quyết toán. Năng lực, trách nhiệm của chủ đầu tư còn hạn chế; chậm trễ trong giải quyết các
vướng mắc khi lập báo cáo quyết toán và thiếu kiểm tra, đôn đốc của cơ quan chức năng (Phòng Tài chính – Kế hoạch); Thái độ xử lý vi phạm không cương quyết của người có thẩm quyền (thanh tra) là cácônguyên nhân chính của tình trạng chậm quyết toán các dự án hoàn thành trong thời gian qua.
Công tác thẩm tra, phê duyệt quyết toán còn mang tính hình thức, chưa chuyên sâu do thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn.
2.3.2.4. Công tác kiểm tra, thanh tra
Công tác kiểm tra, thanh tra chưa toàn diện, đầy đủ và hiệu quả không cao, chế tài xử phát chưa nghiêm; chưa thực sự phát huy được hiệu lực trong việc phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm trong hoạt động quản lý, chưa đánh giá được hiệu quả của vốn đầu tư.
Trong điều kiện hiện nay khi tổ chức kiểm toán độc lập, các tổ chức tư vấn về đầu tư công chưa thực sự phát triển rộng khắp trên địa bàn huyện Quốc oai thì công tác thẩm tra quyết toán vốn đầu tư công vẫn thực sự là một gánh nặng cho phòng Tài chính – Kế hoạch. Chất lượng công tác thẩm tra phê duyệt quyết toán chưa được nâng cao
Những hạn chế và bất cập trong công tác quản lý vốn đầu tư công nêu trên đã gây ảnh hưởng lớn đến tiến độ thực hiện các công trình, dự án trong thời gian qua.
Vốn đầu tư công là khoản vốn đầu tư chủ yếu trong cơ cấu vốn đầu tư của huyện. Nó có vai trò quyết định, tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của huyện. Với quy mô đầu tư công ngày càng lớn thì việc quản lý vốn đầu tư công của huyện càng được tăng cường nhằm chống thất thoát, lãng phí, góp phần vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội của huyện.
2.3.3. Nguyên nhân tồn tại
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Huyện Quốc Oai chưa xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược đầu tư của huyện. Công tác quy hoạch chưa được đầu
tư thỏa đáng và khoa học. Quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển ngàng và quy hoạch sử dụng đất còn nhiều nội dung chưa phù hợp, chưa kế thừa quy hoạch có liên quan; xây dựng quy hoạch chưa khoa học nên chưa trở thành cơ sở vững chắc cho các quyết định đầu tư. Quyết định đầu tư còn chưa tuân thủ nguyên tắc chi phí cơ hội.
Công tác quy hoạch trên dịa bàn huyện còn nhiều bất cấp, quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạc xây dựng và quy hoạch sử dụng đất công nhiều nội dung không thống nhất với nhau và chưa phù hợp với nội dung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội. Trong quy hoạch xây dựng còn tình trạng nhiều đồ án quy hoạch chất lượng không cao, phải điều chỉnh quy hoạc nhiều lần. Những bất cập trong công tác quy hoạch đã ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Thư hai, Chất lượng công tác quản lý đầu tư xây dựng còn nhiều hạn chế. Việc xác định chủ trưởng đầu tư còn nhiều trường hợp chưa được chặt chẽ, chưa tuân thủ nguyên tắc chi phí cơ hội; nhiều dự án được quyết định không dựa và sự cần thiết để đầu tư mà do có sẵn nguồn kinh phí hoặc do chủ đầu tư „khéo xin”.
Việc bồi thường GPMB thường đáp ứng yêu cầu đề ra, hầu hết các dự án được quyết định đầu tư khi chưa giải phóng mặt bằng dẫn đến có những công trình đã bố trí vốn 3 năm liên nhưng chưa thể khởi công; nhiều dự án sau khi lựa chọn nhà thầu xây lắp mới tổ chức giải phóng mặt bằng. Chính sách bồi thường GPMB thường xuyên thay đổi, dẫn đến việc GPMB không nhận được sự đồng thuận từ người dân. Việc xây dựng phương án bồi thường GPMB của nhiều chủ đầu tư còn có các sai sót chưa xác định đầy đủ các nội dung chi phí có liên quan như chi phí di dời đường điện, xây dựng lại hệ thông kênh, mương, đường giao thông; còn có hiện tượng kê khống diện tích, khối lượng (cây, mồ mả..,), tài sản bồi thường để trục lợi gây thất thoát ngân sách đồng thời gây khiếu kiện, phản ứng không đồng
thuận từ các hộ dân chấp hành đúng. Việc khảo sát để lập phương án đền bù một số dự án còn chậm và không sát thực tế dẫn đến tình trạng một số hộ dân khi biết nhà nước có chủ trương thu hồi đất đã lợi dụng trồng cây hoa màu để yêu cầu nhà nước đền bù, dẫn đến làm lãng phí, thất thoát vốn nhà nước.
Công tác quản lý, giám sát công trình không nghiêm, nhiều trường hợp buông lỏng dẫn đến hậu quả nặng nề. Một số đơn vị chủ đầu tư thường khoán trắng các khâu lập hồ sơ nghiệm thu, thanh quyết toán công trình cho nhà thầu dẫn tới không kiểm soát được hồ sơ thanh quyết toán, làm thất thoát vốn đầu tư; chưa nâng cao tinh thần trách nhiệm, không tích cực đôn đốc nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công làm kéo dài thời gian thực hiện dự án dẫn tới tăng chi phí, giảm hiệu quả vốn đầu tư.
Thứ ba, chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân và cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình quản lý vốn đầy tư xây dựng cơ bản từ nguồn NSNN, dẫn tới tình trạng thiếu trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, điều này thể hiện rõ nhất trong việc thẩm định, phê duyệt dự án. Nhiều dự án đầu tư thẩm định sơ sài, không xác định sự cần thiết phải đầu tư và hiệu quả kinh tế xã hội của dự án dẫn tới đầu tư không hiệu quả. Ngoài ra, còn do tâm lý, ý thức trách nhiệm chưa cao khi quản lý vốn ngân sách.
Thứ tư, công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ có chuyên môn sâu về lĩnh vực xây dựng cơ bản còn hạn chế. Hiện nay đội ngũ cán bộ quản lý về đầu tư và xây dựng thiếu trầm trọng, đội ngũ cán bộ tham gia quản lý xây dựng có chất lượng chưa cao.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, Chế độ chính sách thường xuyên thay đổi làm chủ đầu tư mất nhiều thời gian điều chỉnh, bổ sung dự toán dẫn tới kéo dài thời gian thực hiện, giải ngân thanh toán vốn; đồng thời cũng tạo ra những kẽ hở cho
một số chủ đầu tư và nhà thầu lách luật đẩy giá trị dự toán và thanh, quyết toán lên cao.
Thứ hai, Năng lực của các đơn vị tư vấn chưa đáp ứng yêu cầu. Hiện nay chỉ một số công trình lớn trên địa bàn huyện thuê các đơn vị tư vấn có năng lực cao khảo sát, lập dự án, thiết kế công trình, còn hầu hết các công trình của huyện do các đơn vị tư vấn trong huyện thực hiện.
Thực trạng hiện nay đội ngũ cán bộ tư vấn trong huyện rất thiếu và yếu; nhiều dự án, thiết kế phải thay đổi bổ sung nhiều lần làm giảm hiệu quả đầu tư. Trong giai đoạn hiện nay khi hầu hết các công trình thanh toán theo hình thức hợp đồng trọn gói thì những sai phạm trong khâu dự án, thiết kế, dự toán và thẩm tra thiết kế dự toán dẫn đến sự thất thoát tiền vốn công trình vì sau khi đã trúng thầu làm đúng yêu cầu thiết kế thì nhà thầu sẽ thanh toán đúng theo hợp đồng, kể cả phần khối lượng tư vấn tính thừa so với thiết kế.
Đội ngũ nhà thầu xây lắp trên địa bàn huyện tính chuyện nghiệp chưa cao; một số nhà thầu năng lực hạn chế, sau khi ký hợp đồng không huy động đủ máy móc, thiết bị, nhân lực, vật tư vật liệu phục vụ thi công, việc thực hiện các mốc thời gian theo tiến độ và kế hoạch đấu thầu không nghiêm túc, một số gói thầu phải gia hạn thời gian thi công.
Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước thường xuyên thay đổi cũng đã gây khó khăn nhất định cho các nhà thầu và cả cơ quan quản lý địa phương. Nhiều chỉ tiêu ổn định kinh tế vĩ mô không được đảm bảo, rủi ro tín dụng, lãi suất, tỷ giá và giá cả nhiều mặt hàng, vật tư tăng đột biến khiến nhiều nhà thầu bị lỗ; nhu cầu vốn do phải bổ sung tổng mức đầu tư tăng mạnh.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỐC OAI,TP HÀ NỘI.
3.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội huyện Quốc Oai giai đoạn 2021-2025
(Theo Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2021- 2025 của UBND huyện Quốc Oai; Nghị quyết phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025 của HĐND huyện Quốc Oai).
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thành phố Hà Nội nói chung, cũng như trên địa bàn huyện Quốc Oai nói riêng, nhu cầu, quy mô và hình thức vốn đầu tư công ngày càng tăng. Việc đầu tư dự án xây dựng cơ bản và quản lý vốn đầu tư công phải đảm bảo đúng quy định, quá trình triển khai thực hiện huy động và sử dụn vốn ngân sách nhà nước phù hợp với luật đầu tư công được quốc hội ban hành số 49/2014/QH-13 ngày 18/6/2014.
Do đó huyện phải xác định các mục tiêu định hướng, danh mục chương trình, dự án đầu tư, cân đối nguồn vốn đầu tư, phương án phân bổ vốn, các giải pháp huy động nguồn lực và triển khai thực hiện. Huyện cần xác định phương hướng phát triển đầu tư công để xác định các dự án trọng tâm, trọng điểm, các dự án liên quan bức thiết đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, đóng góp quan trọng vào việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo môi trường thuận lợi góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân và tăng cường đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phương để tập trung đầu tư, tránh dàn trải, hiệu quả kém, gây phân tán lãng phí nguồn lực nhà nước, giảm nợ đọng xây dựng cơ bản, bảo đảm an ninh tài chính, dư nợ công ở mức cho phép.