b. Huy động vốn tín dụng
Đây là hình thức huy động vốn phổ biến hiện nay bởi thủ tục đơn giản hơn hình thức huy động vốn qua TTCK và tiết kiệm chi phí tuy nhiên các TĐKTNN thường phải có một tài sản đảm bảo cho khoản tín dụng.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay ( ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (ở đây là các TĐKTNN), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán3.
Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần gốc. Các TĐKTNN có thể vay vốn từ các tổ chức khác nhau mà theo đó có các tên gọi khác nhau:
- Tín dụng nhà nước: Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một khoản chi của ngân sách nhà nước, vì cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng, nên Nhà nước phải dành ra một phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất. Song tín dụng nhà nước có những ưu thế riêng, phát triển hoạt động tín dụng nhà nước là đi liền với giảm bao cấp về chi ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn. Hiện tại, hoạt động tín dụng nhà nước do Quỹ hỗ trợ phát triển đảm nhận. Đây là một tổ chức tài chính nhà nước thực hiện việc tài trợ chính sách.
- Tín dụng Ngân hàng: Là khoản tín dụng được cấp bởi các ngân hàng thương mại. Căn cứ vào từng đặc điểm của tín dụng, có thể phân loại tín dụng như sau:
Căn cứ vào mục đích sử dụng khoản tín dụng: cho vay bất động sản, cho vay công nghiệp và thương mại, cho vay nông nghiệp, cho vay các định chế tài chính, cho vay cá nhân, cho thuê
Căn cứ vào thời hạn cho vay: cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm), cho vay trung hạn (từ 1-5 năm), cho vay dài hạn (từ 5 năm trở lên)
3 Học viện Ngân hàng (2001),
Giáo trình “Tín dụng Ngân hàng”, Nxb Thống kê, tr.20
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: cho vay không bảo đảm, cho vay có bảo đảm
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: cho vay có thời hạn, cho vay không có thời hạn cụ thể
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng: cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp
- Tín dụng từ các tổ chức phi ngân hàng và nguồn khác: Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán4. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công
ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. TĐKTNN có thể huy động vốn từ các tổ chức này với mức lãi suất có thể thấp hơn lãi suất ngân hàng hoặc được hưởng một số ưu đãi khác vì các tổ chức tín dụng này muốn tạo lợi thế cạnh tranh. Mặc dù vậy, đây là một kênh vay vốn còn khá mới mẻ với các TĐKTNN ở Việt Nam.
c. Huy động nguồn vốn nội bộ
Vốn nội bộ luôn là nguồn vốn có sẵn nhưng dàn trải, không thể huy động bất cứ lúc nào vì thời điểm nhàn dỗi của khoản đầu tư là khác nhau. Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ tuy không giải quyết được toàn bộ nhu cầu vốn của tập đoàn nhưng được coi là biện pháp chủ động và với chi phí thấp. Hình thức này được huy động theo các cách sau:
- Cách 1: Thực hiện tái đầu tư từ khoản lợi nhuận giữ lại. Lợi nhuận thu được được chia ra theo tỷ lệ nào đó và tiếp tục quay vòng vốn, làm tăng vốn chủ sở hữu (VCSH) để tiếp tục các hoạt động kinh doanh. Khi thực hiện cách này còn phải phụ thuộc vào điều lệ của công ty, tình hình kinh doanh các ký trước và sự đồng thuận của các chủ sở hữu công ty.
- Cách 2: Lưu chuyển vốn nội bộ từ việc tận dụng tín dụng nội bộ nghĩa là vay của nhân viên trong công ty với lãi suất thấp hơn lãi suất ngân hàng, nhưng bù vào đó công ty sẽ có những chính sách ưu đãi khác bù đắp và khuyến khích nhân viên.
4 Quốc hội (2004),
Luật các tổ chức tín dụng, điều 20.
Ngoài ra, trong mô hình TĐKTNN các công ty con có thể kêu gọi sự đầu tư của công ty mẹ dưới hình thức đầu tư thêm vốn hoặc cấp tín dụng.
- Cách 3: Thành lập một định chế tài chính với quan hệ là công ty con. Định chế tài chính này có thể là Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như: công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm… Vai trò của định chế tài chính của tập đoàn trong việc điều hoà vốn nội bộ có tầm quan trọng đặc biệt. Khi tồn tại vốn nhàn dỗi, chưa sử dụng đến của một công ty thành viên trong khi các công ty thành viên khác đang có nhu cầu bù đắp vốn thì lúc này vau trò trung gian tài chính của các định chế tài chính, đặc biệt là các công ty tài chính được phát huy cao độ.
d. Huy động nguồn vốn khác
Ngoài những kênh huy động đã nói ở trên, doanh nghiệp có thể dùng đến các hình thức huy động khác như:
- Cho thuê tài chính (cho thuê vốn- Capital leases): là loại cho thuê trung và dài hạn, bên cho thuê là các TĐKTNN, bên đi thuê là các cá nhân, tổ chức khác không được phá hủy hợp đồng. Bên đi thuê chịu trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài sản. Phần lớn các hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê được quyền gia hạn hợp đồng hoặc được quyền mua đứt tài sản sau khi thời hạn hợp đồng kết thúc. Thực chất cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ vốn cho bên đi thuê, trong đó theo yêu cầu sử dụng của bên đi thuê, các TĐKTNN dùng tài sản có sẵn chuyển giao cho bên đi thuê sử dụng và nhận lại khoản tiển thuê. Nhưng trong ngắn hạn cũng là một kênh cung cấp vốn cho các tập đoàn đang rất cần vốn. Hình thức này thường được áp dụng trong ngành bất động sản hoặc thiết bị sản xuất.
- Cho thuê vận hành (Operation leases): Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê hoạt động, tức cho thuê tài sản có thời hạn nhất định (thời gian thuê chỉ chiếm một phần trong khoảng thời gian hữu dụng của tài sản và là ngắn hạn) và sẽ trả lại các TĐKTNN khi kết thúc thời gian thuê tài sản. Các tập đoàn giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng đã thỏa thuận. Tiền thuê hoạt động sẽ giúp các tập đoàn trang trải một số nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt. Nhưng hình thức này mang lại số vốn không lớn lại phải trải đều theo các kỳ.
- Liên doanh, liên kết sản xuất: là hình thức hợp tác giữa hai chủ thể kinh doanh (có thể trong nước hoặc ngoài nước) bằng cách thành lập 1 pháp nhân mới hoặc chỉ thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh cùng thực hiện những hoạt động kinh doanh hợp pháp để đạt được mục tiêu kinh doanh chung cùng có lợi cho cả hai bên. Nếu TĐKTNN có quy trình kĩ thuật, thương hiệu hoặc nguồn lực chất lượng nhưng lại thiếu tiềm lực về vốn có thể huy động theo hình thức này. Có thể kể đến các kênh như thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), hay kí kết các hợp đồng BOT, BT,… Đây là hình thức biểu hiện tính chất toàn cầu hóa rõ nhất và hiện đang rất được các doanh nghiệp ưa dùng.
1.2.2.2 Cơ chế quản lý, sử dụng vốn và tài sản
a. Quản lý, sử dụng vốn
Vốn sau khi đã được huy động, doanh nghiệp phải lên kế hoạch quản lý, sử dụng vốn sao cho vốn phải sinh lời với tỷ suất sinh lời lớn hơn lãi suất công bố tại ngân hàng. Trước hết vay vốn để bù đắp nhu cầu vốn thiếu hụt trong quá trình SXKD. Sau đó, nguồn vốn dư thừa sẽ được đầu tư vào các kênh khác nhau vì nguyên tắc của một doanh nghiệp là không được để quá nhiều tiền nhàn rỗi. Hiệu quả của việc đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào các quyết định sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Về cơ bản, quyết định nguồn vốn gồm quyết định nguồn vốn ngắn hạn, quyết định nguồn vốn dài hạn, quyết định quan hệ cơ cấu giữa nợ và vốn chủ sở hữu, quyết định vay để mua hay thuê tài sản. Doanh nghiệp phải quyết định xem nguồn vốn ngắn hạn đầu tư vào kênh nào, nguồn vốn dài hạn sử dụng ra sao để cân bằng nguồn vốn trong doanh nghiệp. Theo mô hình công ty mẹ - công ty con đang được áp dụng tại VN, các TĐKTNN nhìn chung có những thẩm quyền như sau đối với các quyết định đầu tư:
- Đầu tư mới 100% vào những công ty 100% vốn của tập đoàn, hay những công ty đã có/sẽ có vốn chi phối của tập đoàn.
- Đầu tư phát triển SXKD vào những công ty nói trên.
- Đầu tư vào những công ty liên kết cũng như việc tăng hay giảm vốn sau này. Trong nền kinh tế mở như hiện nay, có rất nhiều hình thức đầu tư để sinh lời:
- Đầu tư vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh: Đây là mục tiêu chính từ các khoản vốn huy động được. Doanh nghiệp có thể sử dụng vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh theo hai hướng:
Theo chiều rộng: Tiến hành mở rộng quy mô sản xuất và mở rộng thị trường. Vốn sẽ được đầu tư vào máy móc, nhà xưởng, trang thiết bị kỹ thuật, nhân viên mới.
Theo chiều sâu: Doanh nghiệp sử dụng vốn đổi mới công nghệ, thay thế các thiết bị cũ bằng các dây chuyền sản xuất mới, hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, từ đó nâng cao chất lượng đầu ra.
- Đầu tư vốn ra ngoài TĐKTNN5:
Góp vốn, mua cổ phần để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; góp vốn hợp đồng hợp tác kinh doanh không hình thành pháp nhân mới;
Mua cổ phần hoặc góp vốn tại các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh đang hoạt động;
Mua lại một công ty khác;
Mua công trái, trái phiếu để hưởng lãi;
Đầu tư ra nước ngoài: đây là hình thức đầu tư rất được nhà nước khuyến khích vì có tác động tích cực đến cán cân thanh toán của quốc gia. Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài dưới các hình thức như: đầu tư chứng khoán, góp vốn cổ phần, hợp tác liên doanh…
Và một số hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật
Cơ chế đầu tư vốn xét trong mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty con, cháu, công ty liên kết trong các TĐKTNN được phân loại thành các loại hình sau:
- Đầu tư đơn cấp: đây là cơ chế đầu tư đơn thuần chỉ có một cấp, công ty mẹ đầu tư trực tiếp xuống công ty con, công ty con đầu tư trực tiếp xuống các công ty cháu…
5 Chính phủ (2009),
Nghị định 09/2009/NĐ-CP, chương 2, mục 1, điều 7
Sơ đồ 1.3: Cơ chế đầu tư đơn cấp trong các TĐKTNN
- Đầu tư đa cấp: Trong mô hình đa cấp, các công ty, đặc biệt là công ty mẹ, vừa đầu tư trực tiếp vào các công ty con, đồng thời cũng đầu tư trực tiếp vào các công ty cháu, chắt ở dưới, không thông qua công ty trung gian nào.
Sơ đồ 1.4: Cơ chế đầu tư đa cấp trong các TĐKTNN
- Đầu tư hỗn hợp: là mô hình kết hợp tất cả các hình thức đầu tư đơn cấp, đa cấp và các công ty con, cháu còn đầu tư ngược lại công ty mẹ.
Sơ đồ 1.5: Cơ chế đầu tư hỗn hợp trong các TĐKTNN
b. Quản lý, sử dụng tài sản
Thực chất, vốn và tài sản là hai mặt của một vấn đề, vốn chính là biểu hiện bằng tiền của tài sản. Vì thế khi nghiên cứu cơ chế quản lý và sử dụng vốn thì không thể không nói tới cơ chế quản lý, sử dụng tài sản. Khi sử dụng tài sản, TĐKTNN đưa ra các quyết định đầu tư liên quan đến: tổng giá trị tài sản và giá trị từng bộ phận tài sản cần có và mối quan hệ cân đối giữa các bộ phận tài sản trong doanh nghiệp. Quản lý tài sản trong các TĐKTNN được xét trên hai góc độ: quản lý nhà nước về sử dụng tài sản và quan hệ sử dụng tài sản trong nội bộ tập đoàn.
- Nhà nước quản lý tài sản của mình trong các TĐKTNN theo cơ chế tăng quyền tự chủ cho các TĐKTNN trong các quyết định như: được quyền thay đổi cấu trúc tài sản sao cho phù hợp với yêu cầu SXKD của tập đoàn, được cầm cố, thế chấp… tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng hợp pháp của TĐKTNN.
- Cơ chế quản lý và sử dụng tài sản đối với các TĐKTNN bao gồm các nội dung sau: cơ chế cấp phát vốn, tài sản cho các doanh nghiệp là thành viên, cơ chế phân cấp đầu tư, cơ chế thực hiện góp liên doanh hay đầu tư vào các doanh nghiệp khác... Trong đó cơ chế quản lý tài sản tập trung vào cơ chế phân cấp sử dụng tài sản. Hội đồng quản trị (HĐQT) có quyền ban hành cơ chế này, quyết định những chính sách và biện pháp về sử dụng tài sản trong các doanh nghiệp là thành viên. Quản lý tài sản bao gồm quản lý tài sản cố định (TSCĐ) và quản lý tài sản lưu động (TSLĐ).
Quản lý tài sản cố định: Theo thông tư 203/2009/TT-BTC của Bộ Tài Chính, mỗi TSCĐ (bao gồm TSCĐ vô hình và TSCĐ hữu hình) phải được quản lý theo nguyên giá, số hao mòn luỹ kế và giá trị còn lại trên sổ sách kế toán:
= | Nguyên giá của tài sản cố định | - | Số hao mòn luỹ kế của TSCĐ |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 1
- Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 2
- Bốn Yếu Tố Quyết Định Đến Mô Hình Tđktnn
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Trong Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước
- So Sánh Mô Hình Tổng Công Ty Với Mô Hình Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước
- Doanh Thu Và Nộp Nsnn Của Tập Đoàn Pvn Từ 2000-2009
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
Để quản lý được số hao mòn lũy kế của TSCĐ, tất cả TSCĐ hiện có của doanh nghiệp đều phải trích khấu hao gồm cả tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý, trừ những tài sản cố định thuộc công trình phúc lợi công cộng, nhà ở. Căn cứ khả năng đáp ứng các điều kiện áp dụng quy định cho từng phương pháp trích khấu hao tài sản cố định mà doanh nghiệp được lựa chọn các phương pháp trích khấu hao phù hợp với từng loại tài sản cố định của doanh nghiệp như sau:
phương pháp khấu hao đường thẳng
phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh
phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm
Quản lý tài sản lưu động: Tài sản lưu động là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng luân chuyển và thu hồi trong vòng 1 năm. TSLĐ thường được tài trợ bằng vốn lưu động (vốn ngắn hạn). Vì thế quản lý TSLĐ chính là quản lý vốn lưu động theo các hoạt động sau:
Xác định nhu cầu về vốn lưu động
Xây dựng và quản lý các định mức hao phí về nguyên, nhiên, vật liệu, tiền lương và các chi phí bằng tiền khác
Xây dựng và quản lý các định mức về tồn quỹ tiền mặt, các khoản phải thu, khoản phải trả, số lượng hàng tồn kho
Trong quá trình sử dụng doanh nghiệp phải tổ chức kiểm kê, xác định số lượng tài sản (tài sản cố định và đầu tư dài hạn, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn), đối chiếu các khoản công nợ phải trả, phải thu khi khóa sổ kế toán để lập báo cáo tài chính năm để xử lý tổn thất tài sản và đánh giá lại tài sản (trong một số trường hợp).
Theo nghị định 09/2009/NĐ-CP, vấn đề quản lý vốn và tài sản của nhà nước tại các doanh nghiệp, TĐKTNN nhà nước phải có trách nhiệm bảo toàn và phát