tên, số, ngày cấp chứng chỉ hành nghề QTV; trong trường hợp từ chối tham gia v việc phá sản thì QTV phải thông báo bằng văn bản.‖ Như vậy, theo quy định này trong cả hai trường hợp từ chối hoặc đồng ý tham gia QTV Vũ Văn Việt đều phải có văn bản gửi Toà án nhân dân Hậu Giang. Như vậy, phần lỗi của QTV này là không phản hồi chính xác về quyết định của mình trong thời hạn luật định, ngay cả khi không tham gia thủ tục. Nhưng Toà án nhân dân tỉnh Hậu Giang cũng chưa chính xác khi ngầm hiểu không có văn bản từ chối tham gia là đồng ý tham gia. Mà theo quy định kể trên, việc đồng ý cũng phải có văn bản. Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt ở chỗ, hiện nay luật chưa có quy định cụ thể cách hành xử khi QTV đã nhận được quyết định chỉ định nhưng lại không có bất kỳ phản hồi bằng văn bản nào như trường hợp của QTV Vũ Văn Việt. Trên thực tế, từ khi sự việc diễn ra cho đến này, Toà án nhân dân tỉnh Hậu Giang đã không chỉ định QTV Vũ Văn Việt tham gia bất kỳ thủ tục phá sản nào, mặc dù trên địa bàn tỉnh chỉ có 03 QTV. Tuy Toà án nhân dân tỉnh Hậu Giang không chính thức xác nhận đây là một ―chế tài‖ đối với QTV này, song có thể dễ dàng nhận thấy điều đó. Nhưng nếu vẫn còn duy trì tình trạng này thì QTV Vũ Văn Việt có thể khởi kiện được không, vì trên thực tế không có cơ sở pháp lý nào về chế tài của hành vi không phản hồi quyết định chỉ định tham gia thủ tục phá sản?.
b. Thực tiễn mối quan hệ giữa QTV và Chủ nợ
Trên thực tiễn, các vụ việc phá sản có 01 chủ nợ hoặc có nhiều chủ nợ nhưng đều thống nhất phương án đề xuất QTV thường mối quan hệ của QTV và chủ nợ sẽ diễn ra hài hoà, tập trung vì mục tiêu đòi nợ chung. Tuy nhiên, nếu sự thống nhất này không có, hoặc tồn tại mâu thuẫn giữa các chủ nợ về lợi ích, mối quan hệ giữa QTV và một số chủ nợ sẽ có chuyển biến phức tạp. Khi đó, thủ tục phá sản sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ví dụ dưới đây sẽ cho thấy một trường hợp như vậy:
Ví d thủ t c phá sản Công ty TNHH xây dựng Hưng Thịnh [69].
Công ty TNHH xây dựng Hưng Thịnh được thành lập năm 2000, có địa chỉ tại phường Bắc Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng ình. Công ty Hưng Thịnh hoạt động trong lĩnh vực xây lắp công trình dân dụng và mở rộng ra lĩnh vực kinh doanh bất động sản vào năm 2011. Năm 2020, sau thời gian dài làm ăn thua lỗ, công ty Hưng Thịnh đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Ngày 22/3/2020, các chủ nợ của công ty Hưng Thịnh bao gồm: Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Quảng Bình; ông Lê Hữu Bằng – người cho công ty
Hưng Thịnh vay 100 tỷ đồng bằng tiền mặt và quyền sử dụng đất; ông Lê Văn Tám
– người cung ứng thiết bị công trình cho công ty Hưng Thịnh và bà Lê Thị Thới – người cung cấp vật liệu xây dựng cho công ty Hưng Thịnh đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với Công ty TNHH xây dựng Hưng Thịnh tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Toà án nhân dân tỉnh Quảng ình đã ra Quyết định mở thủ tục phá sản số 02/2020/QĐ-MTTPS ngày 03/3/2020 và chỉ định QTV Lê Văn Hiến, luật sư của Văn phòng Luật sư Tín phát và cộng sự có trụ sở tại phường Hải Đình, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình theo đề nghị của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh tỉnh Quảng Bình.
Các thủ tục liên quan đến mở hồ sơ phá sản, chỉ định QTV… đều được tiến hành theo đúng luật định và diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên, đến Hội nghị chủ nợ, do bất đồng quan điểm về Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ mà bà Lê Thị Thới đã không đồng ý thông qua Nghị quyết và có xảy ra tranh cãi với QTV Lê Văn Hiến. Việc làm này khiến cho Nghị quyết không được thông qua vì quy định của pháp luật hiện hành phải có đại diện cho 65% tổng số nợ không đảm bảo biểu quyết tán thành Nghị quyết (tổng phần nợ công ty Hưng Thịnh nợ bà Lê Thị Thới chiếm 53% tổng số nợ không đảm bảo).
Bà Lê Thị Thới có văn bản yêu cầu thay đổi QTV Lê Văn Hiến bằng một QTV khác do bà giới thiệu mới đồng ý xem xét để biểu quyết thông qua Nghị quyết Hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên, các chủ nợ còn lại không đồng ý. Đặc biệt Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam có văn bản đề nghị giữ nguyên QTV Lê Văn Hiến nhằm giải quyết thủ tục phá sản. Các chủ nợ không đảm bảo khác cũng có chung ý kiến và đưa ra cam kết nếu thay đổi QTV sẽ không tiến hành thông qua Nghị quyết Hội nghị chủ nợ (khi đó một mình bà Lê Thị Thới cũng không thể thông qua Nghị quyết Hội nghị chủ nợ).
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Quy Định Về Trách Nhiệm Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Luật Phá Sản
- Thực Tiễn Quy Định Về Mối Quan Hệ Của Quản Tài Viên Với Các Chủ Thể Khác Theo Pháp Luật Phá Sản
- Thực Tiễn Thực Hiện Quy Định Về Trách Nhiệm Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Luật Phá Sản
- Những Hạn Chế, Vướng Mắc Và Nguyên Nhân
- Bối Cảnh Xây Dựng Giải Pháp Hoàn Thiện Và Nâng Cao Địa Vị Pháp Lý Của Quản Tài Viên Ở Việt Nam Hiện Nay
- Các Giải Pháp Phải Đảm Bảo Kế Thừa Những Giá Trị Hợp Lý Của Lịch Sử Bên Cạnh Sự Tiếp Thu Có Chọn Lọc Kinh Nghiệm Quốc Tế
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
Mâu thuẫn này giữa chủ nợ Lê Thị Thới và QTV Lê Văn Hiến sau nhiều lần hoà giải nhưng không thành, cho đến nay đã gần 19 tháng, song vụ việc vẫn phải bị tạm đình chỉ vì sự mâu thuẫn kể trên.
c. Thực tiễn mối quan hệ giữa QTV với DN, HTX đang trong tình trạng phá sản
Trên thực tế mối quan hệ giữa QTV với DN, HTX đang trong tình trạng phá sản cơ bản diễn ra tương đối ôn hoà với tinh thần hợp tác của DN, HTX trong công tác kiểm kê tài sản và phục hồi doanh nghiệp. Qua đó, đã thúc đẩy thủ tục phá sản
đạt được tiến độ và hiệu quả như mong muốn của các chủ nợ. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề trong mối quan hệ này trên thực tiễn, chủ yếu đến từ tâm lý
―phó mặc‖ của đại diện DN, HTX đang trong giai đoạn phá sản.
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản tồn tại tâm lý bỏ mặc sản nghiệp phá sản cũng như thủ tục phá sản của chính mình vì họ không còn lợi ích trong đó, cũng như tâm lý chán chường trong suốt thời gian dài làm ăn thua lỗ. Chính vì thế, trong các thủ tục phá sản, QTV rất khó khăn để liên hệ và đề nghị phối hợp thực hiện các nhiệm vụ của mình. Ví dụ sau đây sẽ cho thấy điều đó:
Ví d thủ t c phá sản HTX dịch v sản xuất nông nghiệp Hưng Phát [70].
HTX dịch vụ sản xuất nông nghiệp Hưng Phát được thành lập năm 2016 tại huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. HTX hoạt động trong lĩnh vực cung ứng vật tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật, con giống và các dịch vụ liên quan đến đầu ra sản phẩm nông nghiệp. HTX có 18 thành viên, Hội đồng quản trị có 07 thành viên do ông Lương Minh Sâm làm chủ tịch; giám đốc do ông Lê Mạnh Hùng đảm nhiệm và cùng trú tại xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. HTX Hưng Phát không thành lập Ban kiểm soát.
Năm 2020, HTX Hưng Phát lâm vào tình trạng phá sản do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 khiến cho HTX mất khả năng thanh toán sau khi dừng hoạt động hơn 14 tháng trước đó. Chủ nợ của HTX Hưng Phát bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Đại Lộc (chủ nợ có đảm bảo) và các cá nhân, tổ chức là chủ nợ không có đảm bảo: Công ty TNHH Sông Hoài; ông Lưu Mạnh Hảo; bà Phan Thị Tứ; ông Trần Bảo Minh và ông Lưu Đức Hoà. Đơn đề nghị mở thủ tục phá sản HTX Hưng Phát do chủ nợ có đảm bảo tiến hành và đề xuất QTV Mai Văn Phước, thuộc Văn phòng luật sư Mai Văn Phước và cộng sự, có trụ sở đóng tại phường Vĩnh Điện, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Toà án nhân dân huyện Đại Lộc thụ lý vụ việc và ra quyết định mở thủ tục phá sản cho HTX Hưng Phát ngày 13/4/2020.
QTV Mai Văn Phước chấp nhận tham gia thủ tục phá sản, nhận hồ sơ từ Toà án nhân dân huyện Đại Lộc và tiến hành kiểm kê tài sản. Tuy nhiên, ông Lương Minh Sâm – Chủ tịch hội đồng quản trị HTX – đại diện theo pháp luật của HTX đã rời khỏi nơi cư trú và hiện nay đang được xác định là đã sang Úc thăm con gái, do tình hình dịch bệnh nên không có dự kiến ngày quay lại Việt Nam. Trước tình hình đó, QTV đã chỉ định ông Lê Quốc Hùng – giám đốc làm đại diện cho HTX, song
ông Lê Quốc Hùng từ chối và ngắt liên lạc với QTV. Các thành viên còn lại của HTX đều từ chối đại diện vì cho rằng không phải là nhiệm vụ của mình. Thiếu đại diện HTX và sự cộng tác của phía HTX đang lâm vào tình trạng phá sản, QTV không thể tiếp tục các hoạt động nghiệp vụ của mình. QTV đã có văn bản xin ý kiến của Toà án nhân dân huyện Đại Lộc về sự việc nhưng đến nay vẫn chỉ được hướng dẫn tiếp tục thoả thuận với đại diện HTX để hoàn tất các hoạt động của thủ tục phá sản.
Như vậy, trên thực tế không phải khi nào mối quan hệ giữa QTV và DN, HTX cũng hài hoà và hợp tác để giải quyết vấn đề chung của thủ tục phá sản. Khi gặp những trường hợp trên, thủ tục phá sản thường bị đình trệ do không có hướng dẫn chi tiết giải pháp khắc phục.
d. Thực tiễn mối quan hệ giữa QTV và chấp hành viên
Trên thực tế mối quan hệ giữa QTV và chấp hành viên diễn ra đảm bảo theo quy định của pháp luật về phá sản. Một phần vì pháp luật có quy định tương đối rõ về quyền hạn và nghĩa vụ của hai chủ thể này. Phần còn lại là vì hai chủ thể đều có hiểu biết pháp lý về vấn đề phá sản, về vai trò của mình và những chủ thể khác trong thủ tục phá sản nên đã có sự phối hợp tương đối hài hoà trong thực hiện thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, trong mối quan hệ này cũng tồn tại một số khó khăn trên thực tiễn. Các khó khăn này chủ yếu xuất phát từ phía Chấp hành viên trong việc thực thi nhiệm vụ giám sát QTV. Cụ thể:
Thứ nhất, Chưa có sự phân định rõ ràng trong giám sát hoạt động của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản. Tại khoản 3 Điều 17, Luật Phá sản năm 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự: ―Giám sát hoạt động của QTV, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản khi thực hiện thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản; yêu cầu QTV, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản báo cáo việc thanh lý tài sản‖.
Theo quy định trên thì chức năng giám sát hoạt động của QTV, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản của cơ quan thi hành án dân sự bắt đầu từ thời điểm cơ quan thi hành án ra Quyết định thi hành án. Tuy nhiên, tại Khoản 4, Điều 9 Luật Phá sản năm 2014 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản: ―Giám sát hoạt động của QTV, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản‖
Như vậy, theo quy định này thì Thẩm phán có chức năng giám sát toàn bộ hoạt động của QTV, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì cũng đồng thời giám sát cả khi thực hiện thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, vì vậy việc
giám sát ở đây có sự chồng chéo giữa hai cơ quan đó là Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự.
Thứ hai, Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định rõ cơ chế giám sát. Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn thi hành án mới chỉ đưa ra quy định cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên có quyền giám sát QTV trong thực hiện thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản nhưng chưa quy định cụ thể cơ chế giám sát được thực hiện như thế nào? Việc yêu cầu QTV báo cáo có thể hiểu cho rằng việc giám sát được thực hiện thông qua báo cáo của QTV hay không? Đồng thời các quy định pháp luật cũng chưa làm rõ trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên khi để xảy ra vi phạm của QTV trong quá trình xử lý tài sản sau khi Tòa án đã ra quyết định tuyên bố phá sản.
Thứ ba, việc giám sát một số hoạt động của QTV, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về định giá, bán đấu giá tài sản:
- Việc quy định quyền giám sát hoạt động thanh lý tài sản của QTV nhưng chưa làm rõ được Chấp hành viên có quyền giám sát hoạt động định giá, bán đấu giá tài sản hay không ví dụ: như giám sát các hợp đồng được ký với tổ chức định giá, tổ chức đấu giá, giám sát việc thông báo, niêm yết của tổ chức thẩm đấu giá, việc bán hồ sơ của các tổ chức đấu giá, việc tổ chức và điều hành phiên đấu giá
- Trường hợp chỉ có một người tham gia đấu giá, một người tham gia trả giá thì QTV có quyền quyết định bán tài sản cho người đó hay phải báo cáo Chấp hành viên trước khi quyết định bán hoặc báo cáo để Chấp hành viên quyết định việc bán hay không bán.
- Theo quy định của Luật Đấu giá tài sản thì hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được ký kết giữa người có tài sản (ở đây là QTV) và người mua trúng đấu giá. Vậy, Chấp hành viên có quyền được giám sát việc thực hiện ký và thực hiện hợp đồng hay không. Trường hợp phát hiện ra hợp đồng có nội dung không đúng hoặc chưa phù hợp với các quy định của pháp luật Chấp hành viên có quyền yêu cầu QTV xem xét lại hợp đồng hay không?.
3.4. Đánh giá thực trạng địa vị pháp lý của quản tài viên theo pháp luật phá sản Việt Nam
3.4.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, pháp luật hiện h nh đã có những ghi nhận cơ bản bao trùm, đ y đủ về các cấu th nh địa vị pháp lý của QTV. Kết quả này được thể hiện dưới một số khía cạnh sau:
- Luật Phá sản năm 2014 v các văn bản liên quan đã l n đ u tiên chính thức xác lập địa vị pháp lý của định ch QTV. Sự ghi nhận này tuy không sớm nhưng cũng mang tính kịp thời khi phản ánh nhu cầu khách quan từ thực tiễn vận động của cơ chế thị trường và xu hướng xã hội hoá một số lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Nhìn lại lịch sử lập pháp về phá sản của Việt Nam có thể thấy, định chế Tổ quản lý tài sản trong Luật Phá sản DN năm 1993 hay Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2004 đã không phát huy được tác dụng trong giải quyết vấn đề nợ chung của thủ tục phá sản. Hệ quả này xuất phát từ quy định về tổ chức và hoạt động của các Tổ này theo hướng ―cha chung không ai khóc‖, lợi ích của các thành viên trong tổ không có tính đồng nhất nên dễ gây ra tình trạng không có tiếng nói chung trong giải quyết nợ… khiến cho trong nhiều trường hợp chính sự hiện diện của các tổ này lại trở thành cản lực trong giải quyết thủ tục phá sản, làm thời gian giải quyết kéo dài, gây tốn kém cho DN. Đồng thời, Tổ quản lý tài sản hay Tổ quản lý, thanh lý tài sản mục tiêu chủ yếu hướng tới giải quyết đòi nợ chung mà không chú trọng đến xem xét khả năng và hỗ trợ phục hồi của DN. Do đó, trên thực tế khi mở thủ tục phá sản, hậu quả tất yếu là DN đó sẽ bị tuyên bố phá sản, làm mất cơ hội phục hồi của DN và gây ra những thiệt hại cho đời sống kinh tế, xã hội của quốc gia. Địa vị pháp lý của QTV ra đời năm 2014 với tư cách là một cá nhân đã đặt ra một bước tiến mới trong pháp luật về phá sản của Việt Nam. Định chế này ra đời không chỉ xoá bỏ Tổ quản lý tài sản hay Tổ quản lý, thanh lý tài sản vốn hàm chứa nhiều bất cập như ở trên, mà còn tạo ra nhiều cơ hội cho DN, HTX được phục hồi sản xuất nhờ kết quả tích cực khi thực hiện các thủ tục phá sản mà Quản tải viên là một cấu thành xuyên suốt, quan trọng.
- Các cấu th nh địa vị pháp lý của QTV đã được Luật Phá sản năm 2014, Nghị định 22/2015/NĐ-CP quy định cơ bản đ y đủ, mang đ n khả năng nhận diện pháp l cao cho định ch này. Đối chiếu những quy định của pháp luật về phá sản hiện hành về các cấu thành địa vị pháp lý của QTV ở Việt Nam với những nội dung được trình bày ở phần lý luận có thể thấy, hầu hết các cấu thành cơ bản địa vị pháp lý của QTV đều được pháp luật phá sản hiện hành đề cập. Mặc dù trên thực tế, sự đề cập này ở nhiều nội dung chỉ mang tính cơ bản mà thiếu sự chi tiết (sẽ được phân tích sâu hơn ở phần hạn chế), tuy nhiên không thể phủ nhận rằng, chính sự ghi nhận cơ bản đầy đủ các thành tố này đã tăng tính nhận diện pháp lý cho QTV và tạo ra cơ hội rất lớn để QTV chính thức trở thành một nghề độc lập trên thực tế.
Trong bốn cấu thành QTV được pháp luật phá sản hiện hành ghi nhận, thành tố quyền và nghĩa vụ của QTV được quy định bao quát hơn cả. Theo đó, các quyền và nghĩa vụ của QTV trong thủ tục phá sản mặc dù chưa được tập hợp hoá và cụ thể hoá nhưng đã được nhắc một cách cơ bản toàn diện. Từ đó dễ dàng để khái quát được vị trí, vai trò của định chế QTV trong thủ tục phá sản. Các quy định của pháp luật phá sản hiện hành cũng đã quy định những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan trong mối quan hệ với quyền và nghĩa vụ của QTV khi thực hiện thủ tục phá sản. Đây là cơ sở để xác lập các mối quan hệ qua lại giữa QTV và các chủ thể. Đặc biệt, mối quan hệ giữa QTV và chấp hành viên cũng đã được pháp luật phá sản hiện hành đề cập và làm rõ ở những góc độ khác nhau.
- Pháp luật về phá sản hiện h nh đã có những quy định đ đảm bảo địa vị pháp lý của QTV. Mặc dù ít được đề cập đến trong thống kê quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của QTV do không phải là nội dung trọng tâm nghiên cứu, tuy nhiên có thể thấy, các cơ chế đảm bảo cho địa vị pháp lý của QTV cũng đã được pháp luật ghi nhận tương đối đầy đủ. Cụ thể, những vấn đề liên quan giới hạn đối tượng được phép xin cấp chứng chỉ hành nghề QTV; các điều kiện được hành nghề QTV; những quy định về xử lý các chủ thể thực hiện hành vi cản trở QTV; quyền khiếu nại, tố cáo của QTV… đã được pháp luật về phá sản hiện hành ghi nhận. Các cơ chế đảm bảo này sẽ giúp cho việc thực hiện địa vị pháp lý của QTV trên thực tế dễ dàng và hiệu quả hơn.
- Pháp luật về phá sản đã có những ghi nhận về giám sát địa vị pháp lý của QTV. Bản chất công việc của QTV luôn có nhiều cám dỗ, trong đó chủ yếu là cám dỗ về vật chất. Những tài sản có giá trị lớn của DN, HTX đang lâm vào tình trạng phá sản luôn là điều lôi cuốn QTV. Trên thực tế thế giới việc QTV lợi dụng quyền và nghĩa vụ của mình để trục lợi cá nhân gây ra thiệt hại cho các chủ thể và cho nhà nước là điều không hiếm thấy. Chính vì thế, cơ chế giám sát QTV luôn được xây dựng và áp dụng song song với các quy chế về địa vị pháp lý của QTV. Theo pháp luật phá sản hiện hành, những nguyên tắc, chủ thể và nội dung giám sát QTV cũng đã được quy định. Điều này không chỉ cấp cho các chủ thể quyền giám sát QTV mà còn tạo ra sự răn đe cho các QTV khi thực thi thủ tục phá sản.
Thứ hai, địa vị pháp lý của QTV đã được ghi nhận và thực thi trên thực tiễn ở những mức đ khác nhau. Trải qua hơn 06 năm pháp luật về phá sản năm 2014 có hiệu lực, cũng là khoảng thời gian tương ứng địa vị pháp lý của QTV được ghi nhận
và thực thi trên thực tiễn. Có thể khẳng định, QTV là một trong những chế định non trẻ nhất trong hệ thống pháp lý Việt Nam. Trải qua hơn 06 năm, dù đến nay quy mô của hoạt động QTV so với các quốc gia sớm ghi nhận về chế định này chưa lớn, song cũng là một bước tiến đáng ghi nhận trong pháp luật về phá sản và thực tiễn thực hiện thủ tục phá sản ở Việt Nam hiện nay. Theo kết quả thực tiễn thực hiện pháp luật về địa vị pháp lý của QTV đã trình bày ở trên có thể thấy, số lượng vụ việc phá sản có sự tham gia của QTV tăng lên theo từng năm. Đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 hiện nay, với trung bình mỗi tháng có đến 11,7 nghìn DN rút lui khỏi thị trường (tính 6 tháng đầu năm 2021) [11], thì sự hiện diện này của QTV là mang một ý nghĩa rất lớn. Với sự tham gia của QTV, thủ tục phá sản được tiến hành chuyên nghiệp hơn và quy củ hơn. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận trong thực tiễn thực hiện pháp luật về địa vị pháp lý của QTV.
Bên cạnh đó, địa vị pháp lý của QTV trên thực tiễn đã được các bên tham gia thủ tục phá sản tôn trọng và dần trở nên tin cậy trong thủ tục phá sản. Theo xu hướng tất yếu, tư duy chuyên nghiệp trên thị trường ngày càng được khẳng định. Các DN, HTX và thậm chí trong tương lai có thể cả cá nhân tham gia sản xuất, kinh doanh lựa chọn thủ tục phá sản làm con đường duy nhất để phục hồi hoặc giải thể hoạt động của mình. Theo xu hướng đó, các bên, đặc biệt là các chủ nợ đã có những cách nhìn nhận thấu đáo về địa vị pháp lý của QTV, qua đó có những tôn trọng về địa vị pháp lý này trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản.
Thứ ba, QTV đã có những đóng góp quan trọng trong quản lý sản nghiệp phá sản, qua đó giúp thủ t c phá sản được diễn ra thông suốt. So với sự hiện diện địa vị pháp lý của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong pháp luật về phá sản giai đoạn từ năm 2014 trở về trước, QTV đã giúp giải quyết những vấn đề vướng mắc, yếu điểm của Tổ quản lý, thanh lý tài sản một cách hiệu quả. Theo đó, Tổ quản lý, thanh lý tài sản được hình thành gồm những thành viên là đại diện của các bên tham gia thủ tục phá sản do 01 Thẩm phán làm tổ trưởng. Cơ cấu này có tính lỏng lẻo về mặt tổ chức và tất yếu cũng dẫn tới khả năng về ấn định và quy trách nhiệm thấp. Chính vì thế, trong thực tế hoạt động, Tổ đã phát sinh những vấn đề tiêu cực như: vì không có cấu trúc chặt chẽ nên việc liên hệ, phối hợp qua lại thiếu cơ chế gắn kết, không có sự điều phối chung hiệu quả; vì là tổ chức mang tính tạm thời nên không có sự phân công công việc rõ ràng, tình trạng ―cha chung không ai khóc‖ diễn ra trong đa số các thủ tục phá sản, đặc biệt là các thủ tục phá sản phức tạp, lớn; việc quy trách