Đặc Điểm Địa Vị Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Pháp Luật Phá Sản

hành viên‖… Cá nhân này có thể là một cá nhân độc lập, nhưng cũng có thể là một cá nhân thuộc một pháp nhân hành nghề quản lý, thanh lý sản nghiệp phá sản. Trong phạm vi luận án, QTV được nhắc đến là các cá nhân, bao gồm cả hành nghề độc lập hay thuộc một pháp nhân cụ thể. Về cơ bản, hai nhóm này không có sự khác nhau rõ rệt về địa vị pháp lý trong thủ tục phá sản.

Thứ hai, QTV hành nghề quản lý và thanh lý tài sản. Bản thân từ ―quản‖ và từ

―tài‖ trong tên gọi của chế định này là hai từ viết tắt của: ―quản lý‖ và ―tài sản‖. Từ đó có thể suy luận ra rằng, nghề nghiệp của QTV chính là quản lý tài sản. Tuy nhiên, tài sản được quản lý bởi QTV không phải là tài sản ở trạng thái bình thường (như quản lý tài sản gia đình hay quản lý tài sản tín thác) mà tài sản được quản lý bởi QTV là tài sản của con nợ - những cá nhân, tổ chức đang lâm vào tình trạng phá sản và việc quản lý tài sản này nhằm phục vụ vào mục đích trả nợ cho các chủ nợ. Như vậy, đặc điểm thứ nhất không chỉ cho thấy QTV thực hiện nghề quản lý tài sản mà còn cho thấy phạm vi hoạt động nghề nghiệp đó của QTV.

Bên cạnh việc quản lý tài sản là sản nghiệp phá sản, QTV còn thực hiện cả hoạt động bán tài sản đó theo sự uỷ quyền của con nợ và sự cho phép của Toà án. Như đã trình bày ở trên, tài sản được QTV quản lý là sản nghiệp phá sản của con nợ, mục tiêu cuối cùng của hoạt động quản lý chính là bảo vệ tính nguyên trạng thông qua việc ngăn chặn các hành vi tẩu tán và các biện pháp bảo vệ khác để tránh hao mòn hay sự tác động của tự nhiên. Và nếu có thể, hoạt động quản lý tài sản cũng góp phần gia tăng giá trị tài sản trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản. Trong khi đó, mục đích của sự quản lý này chính là giải quyết nợ chung một cách ôn hoà và công bằng theo quy định của pháp luật cho các chủ nợ. Để đạt được mục đích đó, tài sản phải được hoá giá - quy về một giá trị nào đó mà thông thường là tiền, bằng hoạt động bán tài sản đó để tiến hành phân bổ nợ. Chính vì thế, có thể nói, QTV thực hiện nghề quản lý tài sản và cả thanh lý tài sản là sản nghiệp phá sản của con nợ - chủ thể đang lâm vào tình trạng phá sản để thực hiện nghĩa vụ chi trả nợ chung cho con nợ đó - đồng thời cũng là thu hồi nợ cho các chủ nợ.

Thứ ba, QTV là m t thi t ch trung gian, có tính đ c lập tương đối. QTV không thực hiện nhiệm vụ mang tính tự thân. Điều này dựa trên: (1) việc tham gia thủ tục phá sản không xuất phát từ lợi ích của QTV; (2) khách thể quản lý – tài sản không phải là tài sản của chính QTV; (3) kết quả hoạt động nghề nghiệp không mang tính thụ hưởng trực tiếp của QTV. (1) cho thấy việc tham gia vào thủ tục phá

sản của QTV với tư cách là một trung gian – không có lợi ích trực tiếp đến hoạt động phá sản. (2) cho thấy QTV là một thụ uỷ pháp lý được uỷ quyền thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của người khác. Quyền và nghĩa vụ quản lý, thanh lý này vị thế là một quyền và nghĩa vụ được uỷ thác và có tính tạm thời. (3) cho thấy QTV được trả thù lao cho kết quả làm việc mà không phải thụ hưởng trực tiếp các kết quả từ hoạt động phá sản.

Với vai trò này, QTV tham gia vào hoạt động phá sản với hai nội dung nhiệm vụ chính: (1) quản lý tài sản phá sản và (2) thanh lý tài sản phá sản. Theo đó, (1) QTV sẽ được uỷ quyền thay mặt Toá án quản lý khối tài sản phá sản hiện có khi tiến hành mở thủ tục phá sản cho con nợ. Các tài sản này bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản hiện hữu và các phần tài sản bị chiếm dụng). Nhiệm vụ này nhằm bảo toàn tài sản phá sản và có thể làm tăng trưởng tài sản này trong thời gian thực hiện thủ tục phá sản. (2) QTV được thay mặt các chủ nợ thực hiện đấu giá thanh lý tài sản phá sản để có nguồn kinh phí giải quyết phá sản con nợ đồng thời tạo nguồn chi trả nợ chung cho các chủ nợ. Bên cạnh đó, ngoài 02 nhiệm vụ như trên, trên thực tế ở nhiều quốc gia, QTV còn thay mặt con nợ điều hành và vạch ra định hướng khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh của con nợ trong trường hợp lựa chọn phục hồi thay vì tuyên bố phá sản (3). Từ những phân tích kể trên có thể thấy rằng, QTV hoàn toàn tham gia vào thủ tục phá sản với tư cách vừa đại diện cho Toà án, vừa đại diện cho chủ nợ và ở khía cạnh nào đó cũng là đại diện cho cả con nợ. QTV thực hiện các nhiệm vụ quản lý và thanh lý tài sản nhằm phục vụ phân phối nợ chung và giải quyết thủ tục phá sản một cách ôn hoà, đúng quy định của pháp luật và nhận tiền công cho nhiệm vụ đó. Từ đó có thể kết luận rằng, QTV là một thiết chế mang tính trung gian.

Tuy nhiên, tính trung gian đó của QTV không được hiểu là một thiết chế hoàn toàn độc lập, càng không thể được hiểu là một ―người phán xử‖, mà cần được hiểu chính xác là một ―thụ uỷ pháp lý‖ - một người được pháp luật uỷ quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý và thanh lý sản nghiệp phá sản. Chính vì thế, trong quá trình hoạt động, QTV phải chịu sự giám sát và có nghĩa vụ báo cáo với các chủ thể tham gia thủ tục phá sản đó. Cụ thể, trước hết QTV chịu sự giám sát và báo cáo Toà án - người đã lựa chọn, chỉ định một QTV tham gia vào một vụ việc phá sản cụ thể. Đồng thời, QTV cũng phải chịu trách nhiệm báo cáo trước các chủ thể giám sát từ phía nhà nước liên quan đến hoạt động thanh lý sản nghiệp phá sản. Tiếp theo, QTV

phải chịu sự giám sát của các chủ nợ, vì về bản chất hoạt động của QTV hướng tới mục tiêu ―chia nợ‖ cho các chủ nợ một cách hài hoà. Như vậy, QTV mặc dù là thiết chế trung gian nhưng không phải có tính độc lập tuyệt đối, mà ngược lại, QTV có tính độc lập tương đối, đại diện và chịu sự giám sát cho các bên trong thủ tục phá sản.

Thứ tư, QTV thường hành nghề v i tư cách kiêm nhiệm. Mặc dù không có sự đồng nhất trong các điều kiện hành nghề quản lý, thanh lý sản nghiệp phá sản của QTV, song trên thực tế nhiều quốc gia có yêu cầu bắt buộc QTV phải là một luật sư, một kiểm toán viên, một kế toán viên… đã có kinh nghiệm làm các nghề trên trong một khoảng thời gian nhất định mới có thể đủ điều kiện nộp hồ sơ trở thành một QTV. Nói cách khác, QTV chính là một danh xưng kiêm nhiệm của một trong các danh xưng nghề nghiệp kể trên. Đặc điểm này cho thấy tiêu chuẩn để trở thành một QTV rất phức tạp, trước hết phải thoả mãn các tiêu chí của những nghề nghiệp gốc (luật sư; kế toán; kiểm toán…) sau đó mới đến các tiêu chuẩn dành riêng cho hành nghề quản lý, thanh lý sản nghiệp phá sản.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.

Bên cạnh đó, điều này cũng cho thấy hoạt động quản lý, thanh lý sản nghiệp phá sản của QTV là hoạt động mang tính ―thời vụ‖ chứ không phải là một nghề độc lập. Tính thời vụ được thể hiện ở chỗ, QTV tham gia vào một vụ việc phá sản nhất định khi có sự chỉ định của Toà án và kết thúc vai trò của mình khi thủ tục phá sản kết thúc. Nhiệm vụ của QTV gắn liền với quy trình giải quyết thủ tục phá sản của từng vụ việc cụ thể, chính vì thế nếu không được Toà án chỉ định, QTV sẽ không có việc làm. Sự ngắt quãng này chính là biểu hiện rõ nhất cho tính thời vụ trong hoạt động của QTV.

Như vậy, từ những phân tích trên có thể khái niệm QTV như sau:

Địa vị pháp lý của quản tài viên theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay - 7

QTV là một cá nhân được pháp luật uỷ quyền tham gia vào thủ tục phá sản nhằm tạm thời quản lý và thanh lý sản nghiệp phá sản của các chủ thể mất khả năng thanh toán. QTV có nhiệm vụ xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ; lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của thẩm phán... QTV bắt đầu tham gia vụ việc khi được chỉ định và kết thúc khi thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản.

c. Khái niệm địa vị pháp lý của QTV theo pháp luật phá sản

Từ khái niệm địa vị pháp lý và khái niệm QTV có thể thấy, xem xét địa vị pháp lý của QTV chính là xem xét các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa QTV với các chủ thể pháp luật khác trong quan hệ thủ tục phá sản. Như vậy, khái niệm địa vị pháp lý của QTV cần làm rõ những vấn đề nội hàm sau:

Thứ nhất, địa vị pháp lý của QTV cho thấy vị trí và vai trò của QTV trong thủ tục phá sản. Đây là nội dung mang tính trọng tâm trong nghiên cứu địa vị pháp lý của QTV. Theo đó, QTV tham gia vào thủ tục phá sản chính là tham gia vào một quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể. Chủ thể đó sẽ có vị trí pháp lý cụ thể và đóng những vai trò xác định đến sự tồn tại và vận động của quan hệ pháp luật đó. Thiếu địa vị pháp lý đồng nghĩa với việc thiếu cơ sở để xác định vị trí và vai trò này của QTV trong thủ tục phá sản. Sự xác định này từ địa vị pháp lý giúp nhận diện được QTV với các chủ thể pháp luật khác trong thủ tục phá sản.

Thứ hai, địa vị pháp lý của QTV cho thấy quyền và nghĩa vụ của QTV trong thủ tục phá sản. Sự hiện diện của QTV trong thủ tục phá sản như đã phân tích ở ý thứ nhất là thể hiện vai trò và ý nghĩa của nó. Để cụ thể hoá vai trò và ý nghĩa đó, QTV phải có được những quyền và nghĩa vụ nhất định. Giá trị của QTV được thể hiện thông qua các quyền và nghĩa vụ này. Địa vị pháp lý của QTV sẽ quy định và biểu hiện chi tiết hai nội dung này nhằm giới hạn được phạm vi hoạt động của QTV.

Thứ ba, địa vị pháp lý của QTV cho thấy mối quan hệ giữa QTV với các chủ thể còn lại trong thủ tục phá sản. Trong thủ tục phá sản có rất nhiều chủ thể cùng tham gia, trong đó bao gồm cả QTV. Địa vị pháp lý của QTV không chỉ thể hiện vị trí, vai trò và quyền, nghĩa vụ của QTV mà còn thể hiện được mối liên hệ của QTV với các chủ thể còn lại. Việc xác định này có bản chất cũng nhằm làm rõ vị trí, vai trò của QTV trong thủ tục phá sản. Ngoài ra, mối quan hệ này sẽ quyết định cơ chế phối hợp giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật về phá sản và là cơ sở để định ra thẩm quyền của các chủ thể khác.

Như vậy, tóm lại từ tất cả các khái niệm liên quan đã được thao tác hoá và những vấn đề cần làm rõ về địa vị pháp lý của QTV như đã phân tích ở trên, có thể khái niệm ―Địa vị pháp lý của Quản tài viên‖ như sau:

Địa vị pháp lý của Quản tài viên là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của Quản tài viên, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của Quản tài viên trong thủ tục phá sản và thể hiện vị trí, vai trò của Quản tài viên trong mối quan hệ với những chủ thể khác khi tham gia thủ tục phá sản.

2.1.2. Đặc điểm địa vị pháp lý của quản tài viên theo pháp luật phá sản

Địa vị pháp lý của QTV có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, địa vị pháp lý của QTV g n liền v i pháp luật về phá sản và thủ t c phá sản. Chế định QTV chỉ xuất hiện trong thủ tục phá sản của một chủ thể đang

lâm vào tình trạng phá sản. Chủ thể đang lâm vào tình trạng phá sản để áp dụng thủ tục phá sản theo pháp luật của các quốc gia cũng khác nhau. Có quốc gia ghi nhận chủ thể phải là một pháp nhân thương mại, có quốc gia ghi nhận rộng ra là một tổ chức, song cũng có quốc gia bao gồm cả cá nhân. Những vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của QTV gắn liền với những tư tưởng, quan điểm pháp lý về phá sản của quốc gia đó. Nói cách khác, địa vị pháp lý của QTV phản ánh các quy phạm nội dung và quy phạm thủ tục của pháp luật về phá sản. Thủ tục phá sản ở các quốc gia khác nhau là khác nhau. Chính vì những sự khác nhau đó, địa vị pháp lý của QTV cũng không có sự đồng nhất giữa các nền pháp lý.

Về cơ bản, địa vị pháp lý của QTV có sự mở đầu và kết thúc như những địa vị pháp lý của các chủ thể khác. Thời điểm mở đầu chính là lúc QTV được trao quyền tham gia thủ tục phá sản dưới dạng một thụ uỷ pháp lý và thời điểm kết thúc chính là lúc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của QTV trong vụ việc phá sản đó. Cả thời điểm bắt đầu và kết thúc đều gắn liền với thủ tục phá sản và trên cơ sở của quá trình thực hiện thủ tục phá sản. Thời điểm bắt đầu và kết thúc địa vị pháp lý của QTV có những đặc điểm như sau:

- Thời điểm bắt đầu địa vị pháp lý của QTV là lúc QTV được chỉ định theo thủ tục hợp pháp của Toà án tham gia vào giải quyết vụ việc phá sản. Như vậy, đánh dấu duy nhất để xác định thời điểm bắt đầu địa vị pháp lý của QTV chính là quyết định chỉ định QTV tham gia thủ tục phá sản. Chính từ lúc này, QTV sẽ xuất hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến thủ tục phá sản được uỷ quyền tham gia. Điều này cũng kéo theo việc xác lập thời điểm tính trách nhiệm pháp lý cũng như vị trí, vai trò của QTV với vụ việc phá sản. Như vậy, sự kiện pháp lý cho việc bắt đầu địa vị pháp lý của QTV chính là quyết định chỉ định QTV tham gia thủ tục phá sản.

- Thời điểm kết thúc địa vị pháp lý của QTV có sự đa dạng hơn. Điều này xuất phát từ thực tế, khởi đầu của một thủ tục phá sản chỉ có một sự kiện pháp lý duy nhất. Song, kết thúc của thủ tục đó lại có nhiều sự kiện pháp lý khác nhau. Các sự kiện đó bao gồm:

+ Thủ tục phá sản được hoàn thành. Đây là sự kiện pháp lý làm chấm dứt thủ tục phá sản và cũng chấm dứt cả địa vị pháp lý của QTV đối với vụ việc phá sản đó. Trường hợp này hiểu đơn giản là thủ tục phá sản đã thành công, tài sản đã được thanh lý, các khoản nợ đã được phân bổ và chủ thể lâm vào tình trạng phá sản đã

chấm dứt hoạt động theo đúng thủ tục phá sản. Trường hợp này QTV đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và được thanh toán thù lao, chi phí theo quy định.

+ Thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện thành công. Đây là sự kiện pháp lý làm chấm dứt thủ tục phá sản và cũng chấm dứt cả địa vị pháp lý của QTV nhưng không theo hướng phá sản mà theo hướng phục hồi. Theo đó, thay vì lựa chọn con đường thanh lý tài sản, trả nợ và rút lui khỏi thị trường, các chủ thể mất khả năng thanh toán được sự thống nhất của chủ nợ tiến hành tái cấu trúc để phục hồi. Sau khi tham gia xây dựng và thực thi phương án phục hồi, QTV sẽ chấm dứt địa vị pháp lý của mình và điều này cũng đồng nghĩa với việc thủ tục phá sản chấm dứt. Sự kiện pháp lý này cũng giống việc phá sản thành công ở chỗ, QTV đã hoàn thành xong nhiệm vụ do nhu cầu khách quan của phá sản đã hết. QTV nhận thù lao và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của mình đối với vụ việc phá sản đó. Trường hợp này có tính phổ biến ít hơn so với trường hợp thứ nhất, vì một số quốc gia trên thế giới không ghi nhận về lựa chọn phương án phục hồi thay vì bị tuyên bố phá sản khi mở thủ tục phá sản. Phần còn lại, mặc dù có ghi nhận lựa chọn này song các chủ nợ ít khi lựa chọn phương án này vì tâm lý đòi được nợ luôn lớn hơn tâm lý khôi phục để sinh lời từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của chủ thể đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.

+ QTV bị thay thế. Đây là sự kiện pháp lý diễn ra khi bản thân thủ tục phá sản vẫn đang tồn tại. Các chủ thể có quyền thay đổi QTV đã tiến hành thu hồi quyết định chỉ định một QTV để thay thế bằng một QTV khác. Sự kiện pháp lý này đồng thời vừa làm phát sinh địa vị pháp lý của QTV được chỉ định thay thế và vừa chấm dứt địa vị pháp lý của QTV bị thay thế. Khác với hai trường hợp trên, QTV bị thay thế chấm dứt địa vị pháp lý khi chưa thực hiện thành công nhiệm vụ của mình. Thông thường sự kiện pháp lý này diễn ra khi QTV bị thay thế không đáp ứng được chuyên môn, các tiêu chuẩn khác hoặc tự QTV đó xin dừng nhiệm vụ.

+ QTV bị thu hồi giấy phép hành nghề. Trường hợp này xuất phát từ một cơ chế trách nhiệm pháp lý khi QTV vi phạm nghiêm trọng các quy tắc hành nghề đến mức phải tước bỏ tư cách hành nghề. Việc bị thu hồi giấy phép hành nghề đồng nghĩa với việc tư cách pháp lý của QTV bị mất, tất yếu không thể tiếp tục tham gia thủ tục phá sản dẫn tới địa vị pháp lý bị chấm dứt. Chấm dứt địa vị pháp lý theo hình thức này là một chế tài nằm ngoài ý muốn chủ quan của QTV và cũng không

xuất phát từ nhu cầu khách quan của thủ tục phá sản, mà hoàn toàn xuất phát từ trách nhiệm pháp lý của hành vi.

Thứ hai, địa vị pháp lý của QTV xác định vị trí QTV là trung gian trong giải quy t thủ t c phá sản. Địa vị pháp lý của QTV xác lập vị trí, vai trò của QTV rất đặc biệt trong thủ tục phá sản. Theo đó, QTV không có quyền lực nhà nước, nhưng lại được thụ uỷ quyền từ quyền lực tư pháp. Theo đó, QTV đại diện cho tất cả các chủ nợ tiến hành đòi nợ tập thể, QTV nhận sự uỷ quyền của toà án để tiến hành các thủ tục phá sản cho con nợ. Chính vì thế, địa vị pháp lý của QTV xác định một vị trí trung gian, mặc dù vốn không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến thủ tục phá sản của con nợ, nhưng lại tham gia ở vị trí trung gian để điều phối lợi ích của các bên. Và cũng chính vì thế, địa vị pháp lý của QTV chịu sự tác động rất lớn từ địa vị pháp lý của các chủ thể còn lại trong thủ tục phá sản.

Thứ ba, địa vị pháp lý của QTV th hiện tư tưởng công bằng, b nh đẳng và hợp lý trong giải quy t phá sản. Bản chất sự tồn tại của QTV không vì lợi ích tự thân của định chế này, ngược lại, vì lợi ích của con nợ, của chủ nợ và cả vì lợi ích của nhà nước. Chính vì thế, địa vị pháp lý của QTV với các cấu thành chủ yếu về quyền và nghĩa vụ của QTV trong thủ tục phá sản là sự biểu hiện của quan điểm công bằng, bình đẳng và hợp lý của nền pháp lý trong giải quyết phá sản. Nói một cách dễ hiểu, nếu không tôn trọng các giá trị trên, nền pháp lý đó sẽ không thiết lập địa vị pháp lý của QTV, qua đó phủ nhận sự hiện diện của QTV trong thủ tục phá sản. Ngược lại, xác lập địa vị pháp lý của QTV chính là thừa nhận các giá trị công bằng, bình đẳng và hợp lý trong giải quyết phá sản.

Thứ tư, địa vị pháp lý của QTV phản ánh xu hư ng của thời đại. Sự xuất hiện các quy định về địa vị pháp lý của QTV trên phạm vi thế giới không có tính ngẫu nhiên và tức thời. Ngược lại, đó là kết quả của một quá trình xem xét, luận giải và thử nghiệm trên thực tế với những tên gọi, nội dung và bản chất khác nhau. Quá trình hình thành và phát triển địa vị pháp lý của QTV là một câu chuyện lịch sử pháp lý với những giai đoạn thăng trầm khác nhau và được hoàn thiện theo thời gian.

Tuy ở mỗi quốc gia, hành trình xác lập địa vị pháp lý của QTV khác nhau, nhưng tựu chung lại, sự ra đời và hoàn thiện địa vị pháp lý của QTV tỉ lệ thuận với xu hướng phát triển chính trị, kinh tế và xã hội của từng quốc gia. Theo đó, địa vị pháp lý của QTV không chỉ phản ánh xu hướng của một nền kinh tế thị trường tự do mà còn phản ánh xu hướng chuyển đổi nền quản trị nhà nước từ truyền thống sang hiện

đại – nơi nhà nước dần thu hẹp sự tác động của mình và nhường lại cho xã hội dân sự thực hiện phần lớn các quan hệ pháp lý và QTV là một trong những ví dụ điển hình cho sự chuyển dịch đó.

2.2. Sự cần thiết ghi nhận địa vị pháp lý của quản tài viên theo pháp luật phá sản

Với sự phát triển của kinh tế thị trường, các chủ thể sản xuất, kinh doanh tồn tại và vận hành dựa trên các cơ chế tự do cạnh tranh và đào thải. Những chủ thể có nội dung, hình thức và cách thức sản xuất, kinh doanh phù hợp sẽ đạt được những thành công và liên tục mở rộng quy mô. Ngược lại, những chủ thể yếu kém về quản trị; không liên tục nâng cao chất lượng và giá thành sản phẩm, dịch vụ; thiếu sự nhạy bén cần thiết trong cạnh tranh… tất yếu sẽ thất bại và lâm vào tình trạng khánh kiệt. Theo lẽ tự nhiên, một chủ thể ở tình trạng khánh kiệt có thể tự quyết định giải thể để chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh và cũng là chấm dứt đà khánh kiệt của mình. Tuy nhiên, thực tế một chủ thể như vậy trên thị trường không tồn tại đơn độc, mà mỗi chủ thể là một mắt xích trong một chuỗi cung ứng nhất định nào đó và phổ biến nhất là trong chuỗi cung ứng vốn. Do đó, khi một mắt xích lâm vào tình trạng khánh kiệt, sẽ xuất hiện vấn đề về đòi nợ và trả nợ. Trong đó, chủ thể khánh kiệt là con nợ và những chủ thể cung ứng vốn trở thành chủ nợ. Cũng theo trạng thái tự nhiên, con nợ khi lâm vào tình trạng khánh kiệt sẽ tự làm mình nghèo hơn để thoát hoặc giảm nghĩa vụ trả nợ. Trong khi đó, chủ nợ lại luôn có tâm lý muốn thu hồi nhanh chóng nợ của bản thân trước các chủ nợ khác, nên có những chủ nợ nắm bắt tin tức trước đã có những hành vi đòi nợ trước. Các chủ nợ đòi nợ sau sẽ được phần ít hơn hoặc không nhận được bất kì khoản trả nào do chủ thể khánh kiệt đã mất khả năng thanh toán. Vấn đề này dẫn tới sự không minh bạch, thiếu công bằng, không bình đẳng và mất tính hợp lý khi đòi nợ và thanh toán các khoản nợ. Chính vì thế, chế định phá sản ra đời nhằm giúp hoạt động đòi nợ tập thể diễn ra một cách có trật tự, qua đó đảm bảo cho chủ thể khánh kiệt rút lui khỏi thị trường một cách ôn hoà.

Địa vị pháp lý của QTV gắn chặt với chế định phá sản, bởi phá sản là tiền đề - là một sự kiện pháp lý làm xuất hiện định chế QTV. Nếu phá sản giúp đòi nợ một cách tập thể, thì QTV sẽ đảm bảo phân phối nợ đó một cách công bằng và hợp lý. Muốn vậy, QTV phải được quy định chặt chẽ vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong mối quan hệ pháp luật phá sản để từ đó đảm bảo cho định

Xem tất cả 182 trang.

Ngày đăng: 15/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí