xuống các đơn vị/doanh nghiệp (có những giai đoạn chiếm khoảng 80% vốn điều lệ); phần vốn điều lệ sử dụng cho các hoạt động SXKD thấp, do đó đơn vị phụ thuộc vào nguồn vốn từ bên ngoài như người mua trả tiền trước, vay ngân hàng, chiếm dụng của khách hàng,… Chưa thực hiện công tác điều hòa vốn: Vốn của doanh nghiệp chủ yếu được dùng để đầu tư tài chính, không linh hoạt trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư của chủ sở hữu dẫn đến việc thiếu hụt nguồn vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính của Tổng công ty.
- Thứ tư, Tổng công ty chưa chủ động trong công tác tìm kiếm công ăn việc làm và đa dạng hóa sản phẩm dẫn đến nguồn việc hoàn toàn phụ thuộc P VC. Doanh thu bị ảnh hưởng nhiều bởi sự tác động từ các khó khăn trong nền kinh tế, bên cạnh đó một phần bị ảnh hưởng bởi tính năng động trong nền kinh tế thị trường của đơn vị còn yếu, trông chờ sự hỗ trợ và giao việc từ Tập đoàn.
- Thứ năm, công tác đầu tư máy móc thiết bị phục vụ thi công cũng không thực hiện được để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
* Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, hệ thống pháp luật và môi trường pháp lý, các chính sách kinh tế của Nhà nước nói chung và cụ thể là cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước áp dụng cho các doanh nghiệp còn chưa hoàn thiện, thiếu thống nhất và đồng bộ.
Hệ thống các văn bản hướng dẫn ban hành chậm so với hiệu lực của Luật, do đó gây khó khăn và lung túng cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.
- Thứ hai, chủ trương, định hướng phát triển của Tổng công ty nhiều thay đổi, từ một đơn vị xây lắp nhỏ chuyển sang mô hình Tổng công ty, đa ngành nghề rồi lại chuyển về mô hình doanh nghiệp xây lắp. Do đó, công tác đầu tư và sử dụng vốn chưa hiệu quả, có giai đoạn đầu tư dàn trải, không tập trung.
- Thứ ba, dự án mà P VC tham gia triển khai có quy mô lớn, nhiều dự án khi PVC ký hợp đồng chưa có thiết kế chi tiết, khối lượng và giá trị công việc cần thực hiện biến động lớn trong quá trình triển khai, công tác phê duyệt phát sinh và điều chỉnh giá trị gói thầu của Chủ đầu tư/Tổng thầu phức tạp, kéo dài,…
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Biến Động Tài Sản Của Pvc Giai Đoạn 2018-2020
- Tình Hình Doanh Thu Của Tổng Công Ty Cổ Phần Xây Lắp Dầu Khí Việt Nam Giai Đoạn 2018-2020
- Hiệu Quả Sử Dụng Vốn Cố Định Của Pvc Giai Đoạn 2018-2020
- Quản lý tài chính của Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam PVC - 13
- Quản lý tài chính của Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam PVC - 14
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP DẦU KHÍ VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển và yêu c ầu quản lý tài chính của Tổ ng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh kinh tế xã hội tác động đến công tác quản lý tài chính c ủa Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam
3.1.1.1. Tình hình kinh tế thế giới
Đầu năm 2020, giới chuyên gia từng lạc quan đưa ra dự báo về những gam màu sáng trong bức tranh triển vọng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tất cả đã thay đổi khi đại dịch Covid-19 xuất hiện. Sức tàn phá ghê gớm của dịch Covid-19 là đòn giáng “chí mạng” vào nền kinh tế thế giới. Đại dịch trở thành “sát thủ vô hình” đẩy nền kinh tế toàn cầu vốn đang trong giai đoạn phục hồi mong manh sa lầy vào đợt suy thoái tồi tệ nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Chưa bao giờ mọi hoạt động kinh tế - xã hội từ công nghiệp, giao thông vận tải đến các lĩnh vực dịch vụ, vui chơi giải trí... kéo theo lực lượng lao động ước tính hơn 3 tỷ người đồng loạt bị ảnh hưởng. Kinh tế thế giới bỗng chốc “bốc hơi” hàng nghìn tỷ USD, kéo theo không ít thành quả gây dựng trong nhiều năm qua bị tiêu tan.
Theo số liệu của một số viện nghiên cứu kinh tế trên thế giới, mức độ tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2020 giảm khoảng từ 5 -7% so với mức độ tăng trưởng trung bình của kinh tế thế giới trong các năm trước và kinh tế thế giới cần thời gian ít nhất từ 2-3 năm để khôi phục lại được nhịp độ tăng trưởng ở thời trước khi dịch bệnh bùng phát và lây lan. Những nền kinh tế lâu nay chưa giải quyết được các vấn đề và bất cập mang tính cơ cấu cũng như phụ thuộc nhiều nhất vào ngành dịch vụ thì đều bị ảnh hưởng tiêu cực nặng nề nhất.
Để đối phó với tác động xấu do Covid-19, các nước đã đồng loạt tung ra các gói kích thích cùng nhiều biện pháp tiền tệ và cho vay khẩn cấp để giải cứu nền kinh tế. Tổng trị giá các gói hỗ trợ của Mỹ hay Nhật Bản thậm chí lên tới 20% GDP. Trong tháng 3/2020, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã hai lần hạ lãi suất khẩn
cấp. Trong khi đó, một loạt ngân hàng trung ương trên thế giới như châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Australia... đã hạ lãi suất xuống các mức thấp kỷ lục.
Những tháng cuối năm 2020, kinh tế toàn cầu đang xuất hiện những tín hiệu cho thấy sự phục hồi. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hoạt động kinh tế toàn cầu phục hồi kiên cường bất chấp sự trỗi dậy của đại dịch. Sau khi GDP tăng mạnh trở lại trong Quý III ở một số nền kinh tế phát triển, chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tổng hợp toàn cầu đã tăng từ mức 52,5 trong tháng 9 lên 53,3 vào tháng 10, nhờ lĩnh vực chế biến chế tạo và dịch vụ được cải thiện. Đây cũng là tháng tăng trưởng thứ 4 liên tiếp kể từ quý II/2020, đạt mức cao nhất trong 26 tháng qua. Đà tăng vẫn tiếp tục vào tháng 11, với chỉ số niềm tin kinh tế toàn cầu (Sentix) chuyển từ tiêu cực sang tích cực lần đầu tiên sau 9 tháng. Những tín hiệu này được xem là “điểm sáng hy vọng” trong bối cảnh bức tranh kinh tế toàn cầu vẫn đang u ám bởi tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định, tăng trưởng toàn cầu năm 2020 giảm 4,4%, mức giảm thấp hơn so với dự báo đưa ra trong tháng 6 năm 2020 (4,9%). Điều chỉnh tích cực này là do tăng trưởng GDP Quý II tại các nền kinh tế phát triển tốt hơn dự kiến và các chỉ tiêu cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ hơn trong Quý III. Dự báo tăng trưởng toàn cầu đạt 5,2% trong năm 2021. Tăng trưởng nhóm các nền kinh tế phát triển được dự báo giảm 5,8% năm 2020, nhưng sẽ tăn g lên mức 3,9% trong năm 2021. Đối với các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi, tăng trưởng được dự báo ở mức giảm 3,3% năm 2020 và tăng lên 6% năm 2021.
Tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế Fitch Ratings (FR) dự báo, tăng trưởng GDP thế giới là giảm 3,7% năm 2020, tốt hơn mức giảm 4,4% đưa ra trong tháng 9 nhờ sự phục hồi mạnh mẽ hơn dự kiến trong Quý II năm 2020. FR cũng nâng dự báo tăng trưởng GDP thế giới năm 2021 thêm 0,1 điểm phần trăm, lên 5,3%.
Bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế cũng nhận định, vắcxin ngừa Covid -19 sẽ là nhân tố giúp thúc đẩy đà phục hồi kinh tế toàn cầu. Con đường phía trước sẽ sáng hơn nhưng vẫn còn mong manh và nhiều thách thức.
3.1.1.2. Tình hình kinh tế trong nước
Kinh tế – xã hội năm 2020 của nước ta diễn ra trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh và diễn biến khó lường trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới. Các nền kinh tế lớn đối mặt với tình trạng suy thoái sâu, tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua. Tuy nhiên, trong những tháng cuối năm, khi phần lớn các nền kinh tế tái khởi động sau phong tỏa do dịch Covid-19, dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới có những dấu hiệu khả quan hơn. Thương mại toàn cầu, giá cả hàng hóa đang dần được phục hồi, thị trường chứng khoán toàn cầu tăng mạnh trong tháng 11 và tháng 12 nhờ tín hiệu tích cực từ sản xuất và hiệu quả của vắc-xin phòng Covid-19. Những nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng đồng chung châu Âu tuy vẫn đối mặt với nhiều khó khăn nhưng đã có xu hướng phục hồi trong những tháng cuối năm 2020 và dự báo tăng trưởng khả quan hơn trong năm 2021. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng tích cực năm 2019, kinh tế vĩ mô ổn định nhưng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực chậm lại. Tình hình đứt gãy thương mại quốc tế gây ra những hệ lụy tới hoạt động sản xuất và xuất, nhập k hẩu của Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức cao. Bên cạnh đó, hạn hán, xâm nhập mặn, mưa, lũ ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng và đời sống nhân dân.
Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp vừa phòng chống dịch, bảo đảm sức khỏe người dân, vừa phòng chống suy giảm kinh tế và giữ vững ổn định xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2020. Nhờ đó, tình hình kinh tế – xã hội quý IV và cả năm 2020 tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận như sau:
GDP năm 2020 tăng 2,91% (Quý I tăng 3,68%; quý II tăng 0,39%; quý III tăng 2,69%; quý IV tăng 4,48%) trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội là thành công lớn của Việt
Nam. Điều này cho thấy tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế, phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực, cố gắng của người dân và cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53%; khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%.
Trong khu vực công nghiệ p và xây dựng, ngành công nghiệp năm 2020 tăng 3,36% so với năm trước, đóng góp 1,12 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo đ óng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%, đóng góp 1,25 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện tăng 3,92%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,51%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; khai khoáng giảm 5,62 % (do sản lượng khai thác dầu thô giảm 12,6% và khí đốt tự nhiên giảm 11,5%), làm giảm 0,36 điểm phần trăm trong mức tăng chung. Ngành xây dựng tăng 6,76%, cao hơn tốc độ tăng của các năm 2011, năm 2012 và năm 2013 trong giai đoạn 2011 -2020, đóng góp 0,5 điểm phần trăm.
Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm từ 6,42 năm 2016 xuống 6,11 năm 2017; 5,98 năm 2018 và 6,08 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011 - 2015. Riêng năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát huy được năng lực nên ICOR năm 2020 đạt 14,28; bình quân giai đoạn 2016-2020 hệ số ICOR đạt 7,04.
Dịch Covid-19 được kiểm soát tốt ở trong nước, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và EU (EVFTA) được thực thi nên sản xuất công nghiệp trong quý IV/2020 có sự khởi sắc với tốc độ tăng giá trị tăng thêm đạt 4,8% so với cùng kỳ
năm trước. Tính chung cả năm 2020, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 3,36% so với năm 2019, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,82%, giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2020 tăng 5,7% so với năm 2019, mức thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020 do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước năm 2020 đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2011-2020, đây là kết quả đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh dịch Covid-19 được kiểm soát tốt tại Việt Nam.
Giá xăng dầu, giá gas trong nước tăng theo giá nhiên liệu thế giới; giá g ạo tăng theo giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng vào dịp cuối năm tăng là những yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2020 tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 0,19% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân năm 2020, chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,23% so với năm 2019. Tỷ giá thương mại hàng hóa năm 2020 giảm 0,74% so với năm 2019 phản ánh giá xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra nước ngoài không thuận lợi so với giá nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam. Điều này tác động không nhỏ đến tình hình quản lý tài chính của các DN ở Việt Nam nói chung và quản lý tài chính tại các DN hoạt động trong lĩnh vực xây lắp nói riêng
3.1.2. Quan điểm - mục tiêu phát triển của Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam
Quan điểm phát triển
Phát triển bền vững, giữ vững ổn định tổ chức hoạt động, đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nghề SXKD, chuyển đổi mô hình quản lý và hoạt động, đặt mục tiêu chất lượng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh lên hàng đầu.
Hợp tác chặt chẽ với các đối tác trong và ngoài ngành, tận dụng tối đa lợi thế là thành viên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
Đẩy mạnh liên doanh, liên kết với các đơn vị có năng lực trong và ngoài nước, giảm thiểu cạnh tranh, tránh đối đầu trực tiếp, từng bước tiếp thu, nâng cao
năng lực chiếm lĩnh thị trường trong ngành, dần mở rộng ra thị trường ngoài ngành và nước ngoài.
Mục tiêu tổng quát
Tổng công ty xác định mục tiêu phát triển chính của đơn vị trên thế mạnh vốn có của đơn vị là xây dựng công nghiệp và chuyên ngành. Tập trung vào các lĩnh vực chính gồm xây dựng các kho xưởng nhà máy công nghiệp và Dầu khí, hệ thống đường ống công nghệ, lắp đặt thiết bị.
Bên cạnh đó tiếp tục xây dựng các công trình dân dụng, hạ tầng cơ sở, các dự án thủy lợi thủy điện và sản xuất kinh doanh vật liệu xây dự ng (bê tông thương phẩm, vật liệu liên quan,...)
Từng bước nâng cao tỷ trọng các công trình ngoài ngành trong các lĩnh vực xây lắp công trình dân dụng và giao thông/cơ sở hạ tầng; đồng thời mở rộng ra thị trường nước ngoài.
Mục tiêu cụ thể
Giai đoạn 2021-2022: Là giai đoạn hồi phục và phát triển lực lượng. Tổng công ty sẽ phục hồi các đội sản xuất và xây dựng lực lượng cán bộ kỹ thuật gián tiếp đồng thời thành lập các tổ công nhân trực tiếp với nòng cốt là các công nhân lành nghề có tay nghề cao.
Giai đoạn 2023-2024: Giai đoạn tăng tốc, chiếm lĩnh thị trường: Tổng công ty xác định giai đoạn này là thời kì trọng tâm của kế hoạch 5 năm. Bên cạnh việc tăng doanh thu sản lượng, P VC nâng cao vai trò thương hiệu của đơn vị thông quan chất lượng sản phẩm. Cũng trong giai đoạn này Tổng công ty sẽ phát triển công tác sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng.
Giai đoạn 2025-2026: Giai đoạn phát triển ổn định: Tổng công ty bước vào thời kì phát triển ổn định. Bên cạnh việc duy trì tăng trưởng, P VC tập trung tích lũy năng lực, đề xuất Tập đoàn đầu tư máy móc, trang thiết bị thi công cấp cho Tổng công ty để từng bước hạ giá thành sản phẩm.
Đến 2035: Giai đoạn phát triển toàn diện, Tổng công ty nâng tầm doanh nghiệp, xây dựng đơn vị thành doanh nghiệp hàng đầu trong xây dựng chuyên ngành ở Việt Nam cũng như thị trường quốc tế, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý tài chính của Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam
Ban lãnh đạo Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam nhận thức rõ PVC đang gặp khó khăn và đã từng bước vượt qua. Do vậy, cùng với sự ủng hộ của Tập đoàn và các đơn vị thành viên trong Tập đoàn, P VC đã rất tích cực trong việc rà soát, xây dựng và triển khai các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, khôi phục và ổn định hoạt động SXKD. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện QLTC trong thời gian tới, cụ thể như sau:
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý nguồn lực tài chính
Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam cần phải tái cấu trúc doanh nghiệp và thoái vốn đầu tư, tập trung vốn vào dự án đầu tư trọng điểm, tạo hiệu ứng tốt cho hoạt động kinh doanh và tăng khả năng sinh lời tái đầu tư cho doanh nghiệp. Đồng thời kết hợp với việc minh bạch tài chính thì mới có thể thu hút các nguồn vốn của các nhà đầu tư, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp.
Đa dạng hóa các kênh huy động nguồn vốn phục vụ hoạt động SXKD thông qua các kênh như cân đối từ nguồn vốn đầu tư sang nguồn vốn kinh doanh; nâng cao hiệu quả, tăng lợi nhuận từ hoạt động SXKD;…
Cần xây dựng một tập hợp các phương pháp, hình thức, công cụ để tiếp cận, huy động vốn cho từng trường hợp để có cơ chế huy động phù hợp và thích ứng linh hoạt với biến động của thị trường.
Thiết lập cơ cấu nguồn vốn hợp lý. Việc xác định cơ cấu vốn hợp lý là vấn đề khó, nên có chiến lược và kế hoạch lâu dài để nghiên cứu và ứng dụng phần mềm kinh tế lượng trong việc nghiên cứu và xác định cơ cấu vốn tối ưu. Hiện nay tỷ trọng Nợ dài hạn/ Vốn chủ sở hữu đã tăng lên đáng kể. Như vậy cơ cấu vốn đã có chiều hướng gia tăng yếu tố rủi ro. Việc vay nợ quá nhiều trong điều kiện thị trường tài chính tiền tệ chưa ổn định khiến P VC gánh nặng chi trả nợ vay và chi phí lãi vay