Quan Điểm Của Nhà Nước Về Xu Hướng Phát Triển Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Trong Các Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước

- Chính phủ Trung Quốc áp dụng một tiêu chí chung để đánh giá kết quả hoạt động của các TĐDN hàng năm, đó là: tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn nhà nước cần phải đạt được bao nhiêu, tốc độ tăng năng suất lao động, tăng xuất khẩu, tỷ lệ đổi mới mặt hàng và mở rộng thị trường, tỷ lệ giảm tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu, tỷ lệ đổi mới công nghệ, phát minh, sáng chế… qua đó việc kiểm soát và quản lý các TĐDN của Trung Quốc dễ dàng và minh bạch hơn.

- Các TĐDN Trung Quốc đặc biệt chú ý đến việc đẩy mạnh sự phát triển của các định chế tài chính trung gian (công ty tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…) của tập đoàn. Vì thế Trung Quốc đã sớm có một hành lang pháp lý về việc quy định hoạt động của các tổ chức này.

b. Hạn chế

Trong quá trình tiếp tục đổi mới CCQLTC trong các tập đoàn, bên cạnh những thành tích đã đạt được, cũng phải ghi nhận một số hạn chế còn tồn tại, đó là:

- Xét về năng lực và hiệu quả vẫn chưa xác định được công ty thành viên chủ chốt của tập đoàn. Chưa phân định được rõ rang quyền lợi giữa thành viên thuộc nhà nước và thành viên không thuộc nhà nước của tập đoàn

- Chưa thiết lập cơ chế điều tiết để đảm bảo công bằng và khuyến khích cạnh tranh trong nội bộ tập đoàn, chống tham nhũng và các can thiệp chính trị vào tập đoàn.

- Phần lớn việc sáp nhập các doanh nghiệp vào tập đoàn vẫn theo sự sắp đặt của chính phủ, các doanh nghiệp phối hợp với nhau chỉ mang tính chất bắt buộc nên hiệu quả hoạt động của các tập đoàn mới ra đời vẫn không cao.

- Hệ thống quản lý phức tạp, nhiều tầng lớp dẫn đến việc chỉ đạo khó tập trung, kém hiệu quả và hậu quả xung đột lợi ích giữa chính phủ và lợi ích kinh doanh của TĐDN. Các tập đoàn, đặc biệt là các tập đoàn có công ty mẹ là doanh nghiệp nhà nước ngoài chịu chi phối về vốn còn chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan: Ủy ban công tác doanh nghiệp của Trung ương đảng, ủy ban kế hoạch nhà nước, ủy ban kinh tế và thương mại quốc vụ viện và ủy ban giám sát tài sản nhà nước của quốc vụ viện.

Cùng với xu thế cải cách, mở cửa, hội nhập khu vực và thế giới, sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường thì những yêu cầu về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là rất lớn. Các TĐDN Trung Quốc có hình thức liên kết phong phú, nội dung tác nghiệp đa dạng, với ưu thế là thị trường nội địa hết sức rộng lớn để phát triển và thử nghiệm các mô hình quản lý, tổ chức, nâng cao khả năng cạnh tranh trước khi mở rộng sang phạm vi xuyên quốc gia. Đó là một lợi thế rất lớn của các TĐDN Trung Quốc. Tuy nhiên, CCQLTC trong các TĐDN của Trung Quốc cũng còn tồn tại một số hạn chế. Những điểm mạnh và những hạn chế của CCQLTC trong các tập đoàn đó sẽ giúp các TĐKTNN ở Việt Nam học hỏi, tham khảo và rút kinh nghiệm, đưa ra những bài học cho các tập đoàn trong việc hoàn thiện CCQLTC.

3.1.3 Bài học cho Việt Nam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

a. Về cơ chế tạo lập và huy động vốn

- Xây dựng trên cơ sở đa sở hữu về vốn và cơ bản dựa trên sở hữu tư nhân nghĩa là người sở hữu về vốn trực tiếp quản lý điều hành, tránh đồng sở hữu về vốn là đồng sử dụng vốn có thể tạo ra những khó khăn nhất định cho việc linh hoạt sử dụng các nguồn vốn nội bộ trong TĐKTNN, nâng cao được hiểu quả sử dụng vốn cho TĐKTNN.

Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 12

- Cần tự đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các công ty con và công ty mẹ để tăng cường việc đa sở hữu về vốn và tạo nguồn vốn mạnh mẽ cho TĐKTNN, đặc biệt là phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, sau dần mới tận dụng được nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài đổ vào thông qua mua cổ phiếu công ty.

- Cần hoàn thiện hơn nữa mô hình các định chế tài chính trung gian như: công ty tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…để tăng cường huy động, điều hòa vốn, tận dụng tối đa nguồn vốn tài chính nội lực. Đồng thời các TĐKTNN cũng phải nghiên cứu, lựa chọn loại hình tài chính trung gian phù hợp với TĐKTNN và tùy từng thời điểm.

b. Về cơ chế quản lý, sử dụng vốn và tài sản

- Cần xây dựng các chiến lược đầu tư phát triển TĐKTNN một cách dài hạn tránh phát triển đầu tư theo cơ hội ngắn hạn (mang tính chất thời vụ) làm chệch định

hướng SXKD chính xuyên suốt của TĐKT. Đầu tư đa lĩnh vực để chia sẻ bớt rủi ro nhưng cần phải xác định kênh đầu tư phù hợp và mang lại hiệu quả cao mà không làm thất thoát, lãng phí về vốn.

- Dựa trên nguyên tắc chung là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, cần phải hạn chế hẳn việc giao vốn như hiện nay trong các TĐKTNN. Ban lãnh đạo của TĐKTNN quyết định chọn lựa chiến lược đầu tư, dự án đầu tư, điều chuyển vốn, nguồn nhân lực cho các dự án, thị trường, sản phẩm có tính chiến lược.

c. Về cơ chế phân phối lợi nhuận

Để các bên tham gia góp vốn trong tập đoàn được đảm bảo công bằng và các bên cùng có lợi phải tránh tình trạng hình thành quỹ tập trung để điều tiết và phân chia mang tính dàn trải, hình thức, không công bằng về lợi ích.

d. Về cơ chế kiểm tra, giám sát tài chính

- Thiết lập một hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chí nhất định trong từng khâu, từng lĩnh vực cụ thể, theo trình tự rõ rang, minh bạch, chính xác nhằm đánh giá các hoạt động giám sát tài chính trong các TĐKTNN.

- Áp dụng các chuẩn mực, khuôn mẫu của các báo cáo tài chính một cách chặt chẽ đối với các TĐKTNN.

3.2 Quan điểm của Nhà nước về xu hướng phát triển cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế nhà nước

Mặc dù, quyết định số 91/TTg về việc chuyển đổi các Tổng công ty 91 sang mô hình TĐKT mới được ban hành cách đây 16 năm, nhưng Đảng và Nhà nước đã thực sự nghiên cứu mô hình TĐKT từ khi mà nước ta vừa lo đánh giặc Mỹ vừa chung tay xây dựng nền kinh tế đất nước. Từ khi chuyển đổi, các TĐKTNN đã được nhà nước định hướng phát triển mô hình TĐKT theo quan điểm tham khảo, xem xét, rút kinh nghiệm từ mô hình TĐDN của Trung Quốc và một số nước khác, lựa chọn và phát triển mô hình cho phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam. Trong đó, CCQLTC trong các TĐKTNN đặc biệt được quan tâm. Năm 2007, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã trình Chính phủ đề án về TĐKT, trong đó có đề cập đến phương hướng phát triển của TĐKT trên hết là phải chú trọng đến đổi mới CCQLTC phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

ở nước ta. Quan điểm của Nhà nước về xu hướng phát triển CCQLTC bao gồm những nội dung sau:

- Việc xây dựng TĐKTNN là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm đưa nền kinh tế phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới. Đảng và nhà nước cũng đã xác định rõ một số lĩnh vực trọng điểm cần phải hình thành TĐKT. Trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế của mình, Nhà nước đều thể hiện quan điểm hình thành các TĐKTNN mũi nhọn và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ví dụ như tập đoàn PVN, EVN, VNPT…

- Các cơ chế chính sách Nhà nước ban hành đều xuất phát từ quan điểm tạo điều kiện để các TĐKTNN phát huy cao độ tính độc lập, tự chủ về vốn, không còn quá lệ thuộc vào Nhà nước. Ban hành các văn bản pháp lý quy định hoạt động của thị trường tài chính để tạo điều kiện cho các tập đoàn phát triển tự thân trong thị trường vốn. Nhà nước yêu cầu các TĐKTNN phải xác định rõ ràng đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn giữa công ty mẹ và công ty con trong việc sử dụng nguồn vốn chung của tập đoàn.

- Con đường phát triển các TĐKTNN phải gắn với việc cổ phần hoá, đi kèm với việc thu hút các đối tác chiến lược trong nước và nước ngoài tham gia vào quá trình cải tổ. Theo Luật doanh nghiệp 2005, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước đến 1/7/2010 tất cả các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hiện có sẽ chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Phát triển của các TĐKTNN phải trên cơ sở: công ty cổ phần đại chúng, thực hiện niêm yết trên TTCK với công tác quản trị doanh nghiệp luôn được hoàn thiện.

- Hướng các TĐKTNN tự phát triển thị trường tài chính trong nước bằng cách khuyến khích tham gia vào các kênh huy động vốn khác nhau, đặc biệt quan tâm đến kênh huy động vốn từ nước ngoài. Nhà nước khuyến khích sự đa dạng hoá trong lĩnh vực đầu tư của các TĐKTNN ngoại trừ những lĩnh vực trước đây tập đoàn kinh doanh không hiệu quả mà chưa có dự án kinh doanh mới phù hợp, phê duyệt và hướng dẫn cụ thể những dự án đầu tư có yếu tố nước ngoài.

Chủ trương này lại được đề cập trong nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6, khoá X: “Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các TCT Nhà nước, hình thành các TĐKTNN mạnh”.

Những quan điểm trên không chỉ định hướng Nhà nước đưa ra những giải pháp hoàn thiện việc quản lý và sử dụng vốn, tài sản Nhà nước trong các tập đoàn mà còn giúp các TĐKTNN có những giải pháp hoàn thiện CCQLTC phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.‌

3.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Mô hình TĐKTNN là một loại hình tổ chức kinh doanh quan trọng trong nền kinh tế nước ta. CCQLTC trong các TĐKT này đang được đổi mới với nhiều dự định, nhiều cái nhìn, nhiều quan điểm. Theo tác giả, để hoàn thiện nó cần sự phối hợp, góp sức của Nhà nước và của các TĐKTNN:

3.3.1. Đối với Nhà nước

Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hành lang pháp lý xung quanh việc thành lập, hoạt động của các TĐKTNN

- Nhà nước hoàn thiện hành lang pháp lý quy định hoạt động tài chính của các TĐKTNN đặc biệt là trong các hoạt động mới phát triển những năm gần đây như: mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.

- Nhà nước sớm ban những yêu cầu và tiêu chí về quy mô tổ chức, phương pháp tổ chức, các hệ thống quản lý, đội ngũ cán bộ, số vốn pháp định, các chỉ tiêu kinh tế tối thiểu... Song song với khung khổ cơ bản nhất về pháp lý, Nhà nước có những quy định rõ ràng hơn trong cơ chế hoạt động và mối quan hệ bên trong mỗi tập đoàn liên quan đến kinh doanh, đầu tư, tài chính, thông tin, nhân sự, tài sản, trách nhiệm... Quan trọng nhất là phải xác định và phân biệt một cách rõ ràng hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước và của chủ sở hữu.

- Đổi mới thể chế về đầu tư: các cơ quan chức năng cần ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thực hiện cho các doanh nghiệp, trong đó cần công khai những ưu đãi đầu tư. Kiên quyết thay đổi cơ chế giao vốn, cấp vốn bằng cơ chế đầu tư vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng cường trách nhiệm trong quản lý vốn,

bảo toàn và phát triển vốn. TĐKTNN chỉ có trách nhiệm hữu hạn đối với số vốn nhà nước tại các công ty con và công ty liên kết, không được điều chuyển vốn của mình đầu tư tại công ty thành viên hạch toán độc lập và vốn, tài sản của công ty thành viên này theo phương thức không thanh toán, trừ trường hợp quyết định tổ chức lại công ty thành viên HTĐL hoặc thực hiện mục tiêu cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Mọi quan hệ đều phải dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế. Điều này sẽ giúp khắc phục tình trạng công ty mẹ hiện nay vẫn thực hành quyền phán quyết về tài sản, nguồn vốn và các nguồn lực khác của các công ty con, đảm bảo quyên tự chủ của các công ty con.

- Đối với tài nguyên đất đai giao cho công ty mẹ quản lý và đầu tư vào các công ty con, Nhà nước cần nghiên cứu để có cơ chế tài chính cần thiết xác định cụ thể, chính xác giá trị đất đai làm cơ sở bàn giao vốn khi thành lập các công ty mẹ, công ty con trong TĐKT. Khi TĐKTNN có nhu cầu sử dụng đất đai, tài nguyên, Nhà nước phải tạo môi trường thông thoáng hơn nữa về các thủ tục hành chính nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng đất đai của TĐ theo đúng quy định pháp luật.

Thứ hai, Nhà nước thúc đẩy sự phát triển của các kênh huy động vốn trong thị trường tài chính Việt Nam:

- Nhà nước mở rộng các kênh huy động vốn cho các TĐKTNN có thể lựa chọn những kênh huy động phù hợp, đặc biệt là cho phép vay vốn nước ngoài trong một thời hạn nhất định so với mức vốn điều lệ thực có. Giới hạn này có thể là từ 100%, 200% tổng vốn điều lệ thực có. Việc vay vốn nước ngoài thực hiện theo qui chế tập đoàn tự vay tự trả, Nhà nước giúp đỡ tìm đầu mối và bảo lãnh vay vốn. Trong phạm vi dư nợ cho phép, tập đoàn phân cấp cho Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc quyết định việc vay vốn. Trường hợp có nhu cầu vay ngoài hạn mức cho phép thì phải được Bộ Tài chính phê chuẩn.

- Nhà nước cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại phải thực hiện đúng các hợp đồng tín dụng đã ký với các tập đoàn kịp thời giải ngân các khoản vay trên cơ sở đàm phán điều chỉnh lại mức lãi suất phù hợp với tình hình mới, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa ngân hàng và tập đoàn.

- Nhà nước cần có giải pháp hữu hiệu hơn nữa để hỗ trợ TTCK đang bị giảm sút hiện nay, bởi đây là thị trường đầy tiềm năng mà các TĐKTNN có thể khai thác, huy động nguồn vốn dài hạn là rất lớn. Cụ thể: ban hành các văn bản luật, văn bản pháp quy nhằm củng cố và hoàn thiện môi trường pháp lý, thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia vào TTCK, hỗ trợ các hoạt động tiếp thị, quảng cáo, đào tạo… về TTCK nhằm nâng cao hiểu biết về tầm quan trong của nó tới đông đảo nhà đầu tư.

- Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam sang một số địa bàn trọng điểm (Lào, Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Campuchia) bằng các hình thức tổ chức xúc tiến đầu tư thích hợp, tổ chức biên dịch tài liệu về luật pháp, chính sách, môi trường và cơ hội đầu tư tại một số địa bàn trong điểm để cung cấp cho các TĐKTNN nói riêng và các doanh nghiệp trong cả nước nói chung.

Thứ ba, muốn nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn và tài sản qua những biện pháp sau:

- Cần phân cấp cụ thể về quyền hạn đối với đầu tư, mua sắm, nhượng bán, cho thuê tài sản hoặc thế chập, cầm cố tài sản để đi vay hoặc cho vay, cho nợ... vì việc thiếu phân cấp cụ thể những vấn đề này đã hạn chế tính chủ động sáng tạo và quyên độc lập kinh doanh của các công ty con.

- Nhà nước phải hạn chế việc cấp phát, bổ xung vốn cho các TĐKTNN, thay thế bằng phương thức cấp tín dụng hay đầu tư nhằm tăng cường tính tự chủ của các TĐKTNN.

- Nhà nước xem xét, khuyến khích các TĐKTNN nghiên cứu, phát triển các dự án đầu tư vào những lĩnh vực mới, mạo hiểm nhưng đem lại suất sinh lời cao như: lĩnh vực công nghệ, sinh học, điện tử…

Thứ tư, Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá, tái cấu trúc toàn bộ các TĐKTNN:

- Rà soát lại chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đến năm 2010 và xây dựng kế hoạch cổ phần hoá năm 2015, đồng thời xác định lộ trình cụ thể về bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các tập đoàn đã cổ phần hoá.

- SCIC cần phải đẩy mạnh tiến độ bán vốn tại các tập đoàn không nắm giữ đầu tư vốn. Theo đó, đa dạng các hình thức bán vốn, giảm đầu mối tập đoàn như

bán đấu giá công khai, đầu giá các nhà đầu tư chiến lược, bán thoả thuận, bán cho người lao động, bán cho đội ngũ quản lý, hoán đổi cổ phiếu, sáp nhập, giải thể đơn vị thành viên… Cơ cấu lại danh mục, nâng cao giái trị vốn nhà nước thông qua việc chuyển vốn nhà nước từ tập đoàn thua lỗ sang đầu tư tại các tập đoàn hoạt động có hiệu quả, có tiềm năng phát triển.

Thứ năm, đổi mới cơ chế quản lý, giám sát TĐKTNN là việc cần phải hoàn thiện ngay đối với Nhà nước:

- Quy định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc quản lý và giám sát TĐKTNN, như Bộ Kế hoạch và Đầu tư giám sát công ty mẹ thành lập doanh nghiệp mới, góp vốn vào doanh nghiệp khác thuộc lĩnh vực có nguy cơ rủi ro, giám sát các danh mục đầu tư, các ngành nghề kinh doanh chính và ngành nghề liên quan; Bộ Nội vụ theo dõi, đánh giá năng lực cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp; Bộ Tài chính giám sát, đánh giá hoạt động tài chính, kết quả kinh doanh của công ty mẹ và toàn bộ hoạt động của TĐKT, giám sát việc tăng vốn điều lệ của công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên, phát hành cổ phiếu, việc vay vốn đầu tư vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản; giám sát việc chuyển dịch vốn, đầu tư, các nguồn lực bên trong tập đoàn và ngoài tập đoàn.

- Xây dựng những tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của TĐKTNN hàng năm như: Tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn nhà nước cần phải đạt được bao nhiêu, tốc độ tăng năng suất lao động, tăng xuất khẩu, tỷ lệ đổi mới mặt hàng và mở rộng thị trường… Thành lập chế độ khen thưởng và phạt với các tập đoàn nhằm khuyến khích việc sử dụng vốn và tài sản có hiệu quả, qua đó nâng cao sức cạnh tranh giữa các tập đoàn.

- Nhà nước cần xóa bỏ độc quyền và đặc quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước để phù hợp với thực hiện các cam kết WTO. Có như vậy mới nâng cao năng lực cạnh tranh của các TĐKT tư nhân và giải phóng được các nguồn lực kinh tế khác.

- Nâng cao vai trò của SCIC trong việc quản lý vốn nhà nước tại các TĐKTNN bằng cách thiết lập một quy trình quản lý bao gồm cả quy trình và các tiêu chuẩn

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 03/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí